doc truyen tieu thuyet đỗ đỗ

Đọc truyện tranh ️ Tôi Trở Thành Nhân Vật Phản Diện Trong Một Cuốn Tiểu Thuyết Chết Chóc ️ Chap mới nhất, ảnh đẹp chất lượng cao ️ Load Nhanh, không quảng cáo ️Đọc Full Sớm Nhất Tại Web Hết lòng với người xưa. Ngoài Ðò dọc là nền tảng, nhà văn Nguyễn Thị Minh Ngọc đã lồng ghép thêm các truyện ngắn khác của Bình Nguyên Lộc (gồm: Nhốt gió, Hương hành kho, Nuôi ghẻ, Xác không chôn, Tấn kịch khan nhà, Me Tây, Một cây triết lý xanh dờn )để tạo ra sự Chương 177: Ngươi mẹ kiếp thực sự là nhân tài Đi tới chính là Đỗ Bối Khang cùng Lý lão bản! "Ha ha ha, Thẩm lão bản ngươi thật đúng là người bận bịu a!" Đỗ Bối Khang vừa nhìn thấy Thẩm Lâm, lập tức liền nở nụ cười. 10 Bí Quyết Chinh Phục Trái Tim. Tiểu Thuyết - Sarah Maclean - 23. 10 Tuổi Và 17 Tuổi. Tiểu Thuyết - Tử Hàn - 11. 11 Phút. Tiểu Thuyết - Paulo Coellho - 34. 11 Tai Tiếng Hạ Gục Công Tước. Tiểu Thuyết - Sarah Maclean - 21. Rencontre En Ligne Film Streaming Vf. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH VÕ HÙNG ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN NGHỆ AN - 2015 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH VÕ HÙNG ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN Chuyên ngành Văn học Việt Nam Mã số LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học TS. LÊ THANH NGA NGHỆ AN - 2015 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU...........................................................................................................1 1. Lí do chọn đề tài.........................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề............................................................................................2 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu khảo sát....................................4 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................4 5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................5 6. Cấu trúc của luận văn.................................................................................5 Chương 1. ĐẶC ĐIỂM NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN........................................................................................................6 Khái niệm nhân vật, các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn ........................................................................................................................6 Khái niệm nhân vật...........................................................................6 Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn.............................9 Bi kịch của nhân vật trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn.............................23 Nhân vật mang bi kịch đỗ vỡ các chuẩn mực giá trị......................23 Con người với tham vọng và sức mạnh đồng tiền..........................26 Bi kịch mất niềm tin.......................................................................27 Bi kịch “gần như là sống”...............................................................29 Hình tượng con người trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn..........................31 Con người bé nhỏ, tự ti, mặc cảm và vô dụng................................32 Con người cô đơn...........................................................................33 Con người tha hóa...........................................................................35 Tiểu kết chương 1.........................................................................................38 Chương 2. ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC TRONG TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN.......................................................................................................39 1 Cấu trúc trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn trong xu thế chung của tiểu thuyết đương đại...................................................................................39 Cấu trúc văn bản tiểu thuyết.................................................................40 Sự phân bố không đồng đều giữa các chương................................40 Sự kết hợp của nhiều phong cách văn bản......................................47 Kết cấu cốt truyện.................................................................................48 Kết cấu dán ghép............................................................................48 Kết cấu song song...........................................................................51 Kết cấu tuyến tính...........................................................................52 Cấu trúc thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn...............54 Khái niệm thời gian nghệ thuật......................................................54 Thời gian sinh hoạt đời thường.......................................................55 Thời gian hồi tưởng........................................................................59 Thời gian ước lượng, tượng trưng..................................................63 Tiểu kết chương 2.........................................................................................65 Chương 3. ĐẶC ĐIỂM NGÔN TỪ VÀ NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN....................................67 Sự độc đáo của lớp ngôn từ miêu tả......................................................67 Ngôn ngữ khắc họa chân dung nhân vật.........................................68 Sự uyển chuyển của lớp từ ngữ gợi cảm giác.................................72 Sự đa sắc thái trong giọng điệu.......................................................75 Kết cấu ngôn ngữ nghệ thuật tiểu thuyết của Đỗ Phấn.........................80 Hòa trộn lời kể, tả, bình luận..........................................................80 Hạn chế đối thoại, gia tăng độc thoại.............................................85 Nghệ thuật kể chuyện trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn...........................89 Người kể chuyện ngôi thứ ba- khách quan hóa câu chuyện...........89 Người kể chuyện ngôi thứ nhất - cái tôi thứ hai của nhà văn.........96 Tiểu kết chương 3.......................................................................................100 KẾT LUẬN..................................................................................................101 DANHMỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................104 1 2 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Tiểu thuyết được coi là "cỗ máy cái" trong văn học hiện đại xét ở khả năng khái quát hiện thực, khả năng phản ánh không chỉ đời sống của một, mà là là sự cộng sinh thể loại. Sự vận động của văn học Việt Nam đương đại cho thấy tiểu thuyết đã thực sự xứng đáng với những gì người ta đã từng nghĩ về nó, ở tư cách là một thể loại tiên phong trong sự khái quát hiện thực, trong sự làm mới đời sống văn học. Nghiên cứu tiểu thuyết chính là góp phần tìm hiểu diện mạo văn học Việt Nam đương đại, và những thành tựu của bản thân thể loại này. Là một họa sĩ, nhưng khi đến với văn chương, thể nghiệm, và rồi dần dần khẳng định ở thể loại tiểu thuyết, Đỗ Phấn, với một phong cách riêng, tạo được ít nhiều dấu ấn trong lòng bạn đọc. Nghiên cứu tiểu thuyết của Đỗ Phấn là góp phần tìm hiểu thêm một khía cạnh thú vị của sáng tạo văn học nó luôn mời gọi và mở lòng đón nhận, thậm chí hào phóng mang đến những thành tựu cho bất cứ ai có tài năng và đam mê. Đấy cũng là một điểm rất quan trọng của văn học trong thế giới phẳng ngày nay. Là một người sinh ra vào những năm năm mươi của thế kỉ trước. Bằng cái lịch lãm của một người xứ Bắc, bằng cái từng trải của một người đã rất quen thuộc với đời sống đô thị, chứng kiến sự vận động của đời sống kinh tế - xã hội ở trung tâm, và bằng con mắt quan sát của một họa sĩ, Đỗ Phấn đã bằng tiểu thuyết của mình, khái quát một cách khá sâu sắc và thành công nhiều mặt của đời sống, từ đó gửi đến người đọc những thông điệp có giá trị về cuộc sống, phận người... Nghiên cứu tiểu thuyết của Đỗ Phấn là góp phần chỉ ra những nét dáng nhất định trong trạng thái của tồn tại, của nhân sinh. 3 2. Lịch sử vấn đề Mặc dù xuất hiện chưa lâu, và cũng không phải bắt đầu khởi nghiệp từ văn chương như nhiều tác giả tiểu thuyết khác, nhưng các sáng tác, cũng như tiểu thuyết của Đỗ Phấn, đã thu hút được sự chú ý của nhiều người nghiên cứu. Tuy nhiên, theo khảo sát của chúng tôi, những đánh giá về các sáng tác của Đỗ Phấn nhưng phần lớn chỉ đánh giá ở mức độ riêng lẻ. Cụ thể đã có một số bài nghiên cứu về đề tài hiện thực đô thị trong tiểu thuyết... và tản văn. Về cơ bản, những nghiên cứu về Đỗ Phấn tập trung trên mấy nét cơ bản sau - Khẳng định những thành công của Đỗ Phấn ở phương diện kĩ thuật viết tiểu thuyết. Trần Nhã Thụy trong bài “Vừa đi vừa bịa” đăng trong tiểu thuyết Vắng mặt, Nxb Hội nhà văn, 2010 viết “Không còn hư thực lẫn lộn nữa mà là vắng mặt. Con người soi gương mà hốt hoảng không nhìn thấy khuôn mặt mình. Nhưng sản phẩm không “Nói triết”, Tác giả cũng loại trừ một lối viết ẩn dụ, hay huyền ảo, hay diễu cợt, hay luận đề... Tác giả không chỉ tập trung làm rõ những tính chất của sự thật bằng cách lấy hiện thực làm chất lửa và phổ lên đó là cái giọng buồn, cái nụ cười thầm của mình”. - Bài Đỗ Phấn giữa chúng ta của Đoàn Ánh Dương đăng trên trang http //vanchuong ra ngày 20 tháng 4 năm 2012 đã đưa ra một số đối sánh để làm rõ thêm trong sáng tác của Đỗ Phấn “... Nguyễn Việt Hà và Đỗ Phấn đều từ các lĩnh vực khá muộn màng đến với văn chương, mỗi người một kiểu, mỗi cách và đều độc đáo. Ở Nguyễn Việt Hà nó đọng lại ở cấu trúc nghệ thuật ngôn từ và Đỗ Phấn, nó lửng lơ ở ngoài cái cấu trúc ngôn từ nghệ thuật ấy .. Sáng tác của Đỗ Phấn không nhằm bày ra cho người đọc cấu trúc ngôn từ nghệ thuật, cũng không tham vọng cao đàm khoát luận về giá trị, tư tưởng, tự do, chân lý. Nó chỉ bày ra một sự thụ cảm cuộc sống một cách có nghệ thuật”. - Trong trang tác giả Hoài Nam viết “Nếu bạn đọc tìm ở tiểu thuyết Đỗ Phấn một câu chuyện thì sẽ không thấy, nhưng anh ta tạo ra cảm giác về đời sống”. Hoài Nam nói rằng, không nên tìm Đỗ 4 Phấn ở việc làm mới một cái gì cả, anh chỉ là người kể chuyện, kể lại những gì đã chứng kiến. Và như nhiều người vẫn nhận xét, dù nghiệp văn của Đỗ Phấn chỉ trung thành với một đề tài Hà Nội thì theo Hoài Nam “Mỗi cuốn sách của ông vẫn là một thế giới khác”. - Trên đây là một số ý kiến đánh giá về tiểu thuyết của Đỗ Phấn. Tuy còn ít nhưng cũng phần nào giúp chúng ta hiểu về đặc điểm tiểu thuyết Đỗ Phấn. Qua những ý kiến trên chúng tôi sẽ tiếp thu để bổ sung thêm trong luận văn của mình đồng thời cũng làm căn cứ để đánh giá về đặc điểm tiểu thuyết của Đỗ Phấn. Những năm gần đây, tiểu tuyết của Đỗ Phấn đã trở thành đề tài nghiên cứu ở một số trường đại học, đặc biệt là ở bậc đào tạo thạc sĩ. Luận văn Thạc sĩ đầu tiên được thực hiện ở trường đại học Vinh của học viên Trần Kim Dũng với đề tài Hiện thực đô thị trong tiểu thuyết Đỗ Phấn đã khảo sát một cách toàn diện về hiện thực đô thị đặc biệt là mối quan hệ giữa hiện thực đô thị và con người đô thị trong cơn xoáy lốc của cơm áo, gạo tiền. Luận văn Thạc sĩ thứ hai được thực hiện ở Đại học Sư phạm Huế là của học viên Tăng Thị Thúy Tiền với đề tài Cảm thức hiện sinh trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn, đã khai thác một cách có hệ thống về tiểu thuyết Đỗ Phấn dưới góc nhìn của chủ nghĩa hiện sinh. Trong luận văn này, những kiểu con người đã được tác giả khai thác một cách thấu đáo, đặc biệt là kiểu con người vong thân và kiểu con người tự lưu đày. Tác giả luận văn đã cho chúng ta thấy được sự tương đồng trong cảm hứng sáng tác và quan trọng hơn nữa là đem đến cho sự nhân bản cho con người, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, hay xã hội nào thì quyền được sống đúng với bản chất của con người là quyền cơ bản nhất. Khi lựa chọn đề tài này, chúng tôi đã khảo sát những văn bản trên và đã mạnh dạn thực hiện đề tài với hy vọng đóng góp một phần cho việc hệ thống hóa đặc điểm tiểu thuyết của Đỗ Phấn và nhìn nhận vai trò Đỗ Phấn trong diện mạo tiểu thuyết nước nhà đương đại. 5 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu khảo sát Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đặc điểm tiểu thuyết của Đỗ Phấn Phạm vi tư liệu khảo sát Để thực hiện đề tài này, chúng tôi khảo sát toàn bộ 7 cuốn tiểu thuyết của nhà văn Đỗ Phấn  Vắng mặt, NXB Bách Việt, Hà Nội.  Rừng người, NXB Phụ Nữ, Hà Nội.  Chảy qua bóng tối, NXB Trẻ, Hà Nội.  Con mắt rỗng, NXB Văn Học, Hà Nội.  Rụng xuống ngày hư ảo, NXB Trẻ, Hà Nội.  Ruồi là ruồi, NXB Trẻ, Hà Nội.  Gần như là sống, NXB Trẻ, Hà Nội. Ngoài ra còn khảo sát thêm truyện vừa Dằng dặc triền sông mưa, NXB Trẻ, Hà Nội 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu các tiểu thuyết của Đỗ Phấn, chỉ ra những đóng góp của nhà văn trong việc khái quát bức tranh đời sống, cũng như đóng góp của ông cho tiểu thuyết Việt Nam đương đại trên một số bình diện nghệ thuật. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn hướng đến ba nhiệm vụ chính Tìm hiểu đặc điểm của thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn. Nghiên cứu tiểu thuyết của Đỗ Phấn trên bình diện cấu trúc. 6 Nghiên cứu đặc điểm ngôn từ và nghệ thuật kể chuyện trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp hệ thống - cấu trúc - Phương pháp so sánh đối chiếu - Phương pháp phân tích tổng hợp - Phương pháp so sánh 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, đề tài của chúng tôi được triển khai thành 3 chương Chương 1 Đặc điểm nhân vật trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn Chương 2 Đặc điểm cấu trúc trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn Chương 3 Đặc điểm ngôn từ và nghệ thuật kể chuyện trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn 7 Chương 1 ĐẶC ĐIỂM NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN Khái niệm nhân vật, các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn Khái niệm nhân vật Nhân vật văn học đóng vai trò trung tâm trong tác phẩm văn chương. Nhân vật trong tác phẩm văn chương chính là "bản sao" của hình ảnh con người và cuộc sống con người. Đó là tiếng nói của thế giới nội tâm con người và cũng là tấm gương phản chiếu xã hội loài người nên không phải ngẫu nhiên mà M. Gorky đã từng phát biểu rằng “văn học là nhân học”. Theo Từ điển thuật ngữ văn học Nhân vật văn học được định nghĩa là “Con người cụ thể được miêu tả trong các tác phẩm văn học. Nhân vật văn học có thể có tên riêng Tấm, Cám, chị Dậu, anh Pha, cũng có thể không có tên riêng như “thằng bán tơ”, “một mụ nào” trong Truyện Kiều. Trong truyện cổ tích, ngụ ngôn, đồng thoại, thần được đưa ra để nói chuyện với con người. Khái niệm nhân vật văn học có khi được sử dụng như một ẩn dụ, không chỉ một con người cụ thể nào cả, mà chỉ một hiện tượng nỗi bật trong tác phẩm. Chẳng hạn có thể nói nhân dân là nhân vật chính trong Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, đồng tiền là nhân vật chính trong Ơgiênni Grăngđê của Bandắc. Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất nó với con người có thật trong đời sống. Chức năng cơ bản của nhân vật văn học khái quát tính cách của con người. Do tính cách là một hiện tượng xã hội, lịch sử, nên chức năng khái quát tính cách của nhân vật văn học cũng mang tính lịch sử. trong thời đại xa xưa, nhân vật văn học của thần thoại, truyền thuyết thường khái quát năng lực 8 và sức mạnh của con người Nữ Oa đội đá vá trời, Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra trăm trứng…. Ứng với xã hội phân chia giai cấp, nhân vật của truyện cổ tích lại khái quát các chuẩn mực giá trị đối kháng trong quan hệ giữa người và người như thiện với ác, trung với ninh, thông minh với ngu đần… Vì tính cách là kết tinh của môi trường, nên nhân vật văn học là người dẫn dắt độc giả vào các thế giới khác nhau của đời sống. Nhân vật văn học còn thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tưởng thẩm mĩ của nhà văn về con người. Vì thế, nhân vật luôn gắn chặt với chủ đề tác phẩm. Nhân vật văn học được miêu tả qua các biến cố, xung đột, mâu thuẫn và mọi chi tiết các loại. Đó là mâu thuẫn của nội tâm nhân vật, mâu thuẫn giữa nhân vật này với nhân vật khác, giữa tuyến nhân vật này với tuyến nhân vật kia. Cho nên, nhân vật luôn được gắn liền với cốt truyện. Nhờ được miêu tả qua xung đột, mâu thuẫn, nên khác với hình tượng hội họa và điêu khắc, nhân vật văn học là một chỉnh thể vận động, có tính cách, được bộc lộ dần trong không gian, thời gian, mang tính chất quá trình. Từ những góc độ khác nhau có thể chia nhân vật văn học thành nhiều kiểu loại khác nhau. - Dựa vào vị trí đối với nội dung cụ thể, với cốt truyện của tác phẩm, nhân vật văn học được chia thành nhân vật chính và nhân vật phụ. - Dựa vào đặc điểm của tính cách, việc truyền đạt lí tưởng của nhà văn, nhân vật văn học được chia thành nhân vật chính diện và nhân vật phản diện. - Dựa vào thể loại văn học, ta có nhân vật tự sự, nhân vật trữ tình, nhân vật kịch. - Dựa vào cấu trúc hình tượng, nhân vật được chia thành nhân vật chức năng hay mặt nạ, nhân vật loại hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng” [19; 202 - 203]. Từ những tiêu chí trên về nhân vật, khi soi chiếu với toàn bộ tiểu thuyết Đỗ Phấn, chúng ta có thể nhận thấy rằng, nhân vật trong tiểu thuyết 9 Đỗ Phấn vẫn mang những tiêu chí về nhân vật như chúng ta lâu nay vẫn quan niệm. Tuy nhiên, có những đóng góp không nhỏ của ông trong việc đem đến một cách nhìn khác về nhân vật. Nhân vật của ông được xây dựng dựa trên sự cảm nhận và sự ghép nối của chính người đọc. Khi xây dựng nhân vật, đặc biệt là nhân vật chính, Đỗ Phấn xóa nhòa gần như toàn bộ chân dung của nhân vật, ông chỉ dừng lại ở việc gợi chứ không tả. Chính vì thế, nhân vật của ông mang tính biểu tượng rất cao, đó có thể là một ai đó ta có thể bắt gặp bất cứ đâu, hoặc đó cũng có thể là chính ta, hay đó cũng chính là một phần của nhà văn. Trong 7 cuốn tiểu thuyết của Đỗ Phấn mà chúng tôi khảo sát thì, trừ hai cuốn Ruồi là ruồi và Chảy qua bóng tối, 5 nhân vật trong 5 cuốn tiểu thuyết còn lại của ông đều có chung một kiểu nhân vật đó là những người đàn ông trung niên độc thân, họ đều là trí thức, họ có cuộc sống thân phận, bé nhỏ và tự nhân thấy mình như phần thừa của xã hội. Phần nhân vật còn lại trong tiểu thuyết của ông viết về những thị dân sống ở Hà Nội mà cuộc sống của họ từng ngày qua là những chật vật mưu sinh đầy khốn khó và đánh đổi. Qua hệ thống nhân vật đầy tính biểu tượng đó, chúng ta nhận thấy được quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn. Đó là những thân phận cô đơn, xa lạ với cuộc đời thực. Họ là những con người mang thương tích và bi kịch. Từ những tiêu chí trên và thông qua việc khảo sát toàn bộ tiểu thuyết của nhà văn Đỗ Phấn, ở chương này, chúng tôi khảo sát các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết của ông để từ đó mà khái quát nên những kiểu con người trong tiểu thuyết của ông. Thông qua đó, chúng ta thấy được sự “hạnh phúc trong bất hạnh” [23] của nhà văn trong việc tái hiện và thấu thị được nỗi đau của kiếp nhân sinh và cái nhìn hết sức tinh tế và chân thực của ông trong việc thức tỉnh lương tri con người. 10 Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn Những người đàn ông trí thức trung niên độc thân Như chúng tôi đã trình bày ở trên, thì 5 trong 7 cuốn tiểu thuyết của Đỗ Phấn chúng ta thấy có hiện tượng lặp lại kiểu nhân vật chính là những người đàn ông trí thức trung niên độc thân. Tuy nhiên, kiểu nhân vật này không đem đến cho người đọc sự nhàm chán mà ngược lại, đem đến cho người đọc một cách nhìn khác về thân phận con người. Kiểu nhân vật này xuất hiện trong tiểu thuyết Đỗ Phấn thường ở độ tuổi từ 45 đến 55, họ đều là thành phần trí thức với những công việc và tình trạng hôn nhân như sau TT Nhân vật Tình trạng hôn nhân Tiểu thuyết Nghề nghiệp 1 Vũ Độc thân Vắng mặt Họa sĩ 2 Văn Độc thân Rừng Người Kỹ sư kinh tế xây dựng 3 Thế Hoàng Độc thân Con mắt rỗng Họa sĩ 4 Thành Gần như là sống Kiến trúc sư, họa sĩ 5 Đức Ly hôn Độc thân Rụng xuống ngày hư ảo Nhà báo Theo quan niệm của người Phương Đông thì độ tuổi từ 40 đến 50 là độ tuổi chính chắn của cuộc đời mỗi con người thông qua tuyên bố gần như là mệnh đề của Khổng Tử “tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập tri thiên mệnh” ba mươi tuổi thì lập thân, bốn mươi tuổi thì hết nghi hoặc, có nghĩa là chính chắn về mặt tri thức, năm mươi tuổi biết được mệnh trời, có nghĩa là đã biết được sự thành bại. Tuy nhiên, cả năm nhân vật mà chúng tôi khảo sát họ gần như chênh vênh trong cuộc đời. Dường như có một nhãn quan chung cho cả năm nhân vật trong cả năm cuốn tiểu thuyết mà chúng tôi khảo sát. Có khác ở đây là họ diễn vai của mình cho từng nhân vật, từng cái tên khác, từng công việc khác. Để rồi khi 11 đối diện với chính mình họ cũng có những nỗi đau như thế, có những nỗi buồn như thế, thậm chí đến cả sở thích ăn uống, làm tình cũng giống nhau. Họ là những mảng khác nhau của một quan niệm, đó là những nhân vật mang trên mình nỗi đau của tuổi hay nói đúng hơn là nỗi đau của thời gian. Độ tuổi của nhân vật có lẽ cùng độ tuổi với nhà văn Đỗ Phấn. Thời gian đã làm cho họ chênh vênh trong cuộc đời của họ. Họ phải chứng kiến những cơn biến động của lịch sử, và đương nhiên đó cũng đồng thời là biến động của văn hóa. Cơn lốc của lịch sử cuốn theo cuộc đời và số phận của họ. Điều đặc biệt ở đây là họ đã từng chứng kiến những năm tháng thanh bình của một Hà Nội lịch lãm trước chiến tranh, họ đã chứng kiến nỗi đau khi phải rời xa Hà Nội trong những ngày có chiến sự, rồi họ lại phải chứng kiến những mất mát về cả vật chất lẫn tinh thần, cả máu và nước mắt trong cuộc chiến “Anh đã sống qua những tháng năm buồn bã của cuộc đời khi đất nước có quá nhiều kẻ thù. Chứng kiến bom rơi đạn nổ suốt dọc chiều dài gầy nhẳng của cái hình chữ S trên bản đồ. Một hình chữ S thương khó mịt mù bom đạn trong suốt hai mươi năm liền. Bây giờ mới thấy sợ. Và chán ghét những đầu óc thù hằn” [31; 41]. Những năm tháng bao cấp không phải chịu cảnh mưa bom bão đạn nhưng cuộc sống khốn khó của thời bao cấp đã làm mất đi phần thể diện trong con người họ. Rồi sau đó họ lại phải chứng kiến sự mất mát về văn hóa của cả một ngàn năm văn hiến trong cuộc chạy đua vũ bão của cơ chế thị trường. Rồi cuối cùng, họ bị bỏ lại trong cuộc chạy đua vĩ đại đó. Và đương nhiên họ cũng không còn là chính họ nữa. Khi đọc những trang văn của Đỗ Phấn, chúng ta không khỏi không liên tưởng đến một thế hệ nhà văn trở về từ cuộc thế chiến thứ nhất trong văn chương Hoa Kỳ, lớp nhà văn mà Hemingway đã từng gọi là “thế hệ mất mát”. Họ chiến thắng trong chiến trận, nhưng họ bại trận trong chính cuộc đời họ. 12 Họ trở về đời thực để rồi ngơ ngác trước sự “lạ phố, lạ nhà” “Xã hội đổi thay đến không ngờ, những gì tôi được học để xây dựng nó hình như không dùng đến nữa. Thậm chí còn khó mà tưởng tượng ra hình ảnh thật sự dù rằng nó vẫn thường xuyên được gia công hoàn thiện trên sách vở tuyên truyền. Nó như thế nào? Ai? Và đi đến đâu? Tôi cứ như chiếc nan hoa gẫy văng ra khỏi vành bánh xe đạp. Để biết đoạn dây thép ấy từ đâu ra cũng không phải là chuyện dễ với lớp trẻ hôm nay nữa rồi” [34; 365]. Độ tuổi của nhân vật đã nói lên rằng họ đã thuộc về một nền văn hóa khác, những chuẩn giá trị khác. Họ đã “lỗi thời” với những gì mà họ đang đối mặt hàng ngày. Về công việc, tất cả trong số họ đều là những công chức làng nhàng, thất nghiệp hoặc gần như thất nghiệp. Điều đặc biệt ở đây là truyện được kể với điểm nhìn bên trong nên sự ý thức về công việc cũng như những phản ứng về công việc của nhân vật được tác giả thể hiện hết sức chân thật và tinh tế. Đối với một công chức bình thường, độ tuổi 40 đến 55 là độ tuổi đánh giá thành bại của một người trong công việc. Họ sẽ được cất nhắc ở một vị trí cao nhất mình có thể có và nếu không sẽ chờ để nghỉ hưu. Đây cũng là giai đoạn hết sức chênh vênh trong cuộc đời công chức của một con người, bởi hai lẽ hoặc là họ sẽ được cất nhắc lên vị trí cao, hai là ngược lại nằm trong diện giảm biên chế. Xét về đời sống công chức, các nhân vật chúng ta đang khảo sát rơi vào trường hợp thứ hai, tuy nhiên họ vẫn tiếp tục làm việc và thậm chí gặt hái được nhiều thành công trong công việc cho chính bản thân họ và họ vẫn ổn đối với chính họ và trong con mắt của những đồng nghiệp và thị dân khác. Họa sĩ Vũ trong Vắng mặt đã rất mặc cảm về chuyện bỏ việc ra làm ngoài bởi theo quan niệm của thời đó “không có định nghĩa trí thức ngoài quốc doanh. Đi lao động kiếm ăn mà cũng lén lút vụng trộm. Và mang tiếng xấu. Làm ngoài” [29; 40]. Sự mặc cảm này đã trở nên uất ức, khổ sở khi mà 13 nhân vật phải che giấu việc không có việc làm của mình như một người có tội “Mi giấu kín chuyện bỏ việc với bà con dân phố. Bằng một phương pháp rất cũ nhưng đầy công hiệu. Sáng sáng vẫn đều đặn dắt xe đạp ra đường. Ăn sáng, uống cà phê ở một quán xa nhà. Không người quen biết. Cái cảm giác như một kẻ vắng mặt giữa chốn đông người nhiều khi làm mi bị ức chế. Ê chề. Chán nản. Làm nhân dân đã là thứ bậc cuối cùng trong xã hội. Nhưng mi có vẻ như còn dưới nhân dân một bậc nữa. làm nhân dân một mình” [29; 41]. Tuy nhiên, với những cố gắng của mình cộng với sự giúp đỡ của bạn bè, Vũ cũng đã trở thành họa sĩ có danh tiếng. Kỹ sư Văn trong Rừng người sau mười năm làm công chức nhà nước “tấm bằng kinh tế xây dựng chẳng dùng vào việc gì. Anh làm việc ở phòng tuyên truyền xí nghiệp đồ gỗ. kẻ khẩu hiệu an toàn lao động và nội quy sản xuất cho các phân xưởng. May mắn ngày ấy chưa cải tiến chữ quốc ngữ như bây giờ. Nếu những cái cách như vậy sớm lên khoảng mười năm, anh đã được liệt vào diện tái mù” [31; 37]. Rồi anh cũng xin chuyển công tác, nhưng anh không lường trước được những rủi ro đang đợi anh đó là “cái cổng sau” của cơ quan mới. Rồi cũng như họa sĩ Vũ, anh chọn con đường làm ngoài. Tuy nhiên, cũng như họa sĩ Vũ, anh cũng có sự may mắn và được sự giúp đỡ của người bạn tốt bụng nên công việc cũng suôn sẽ và nuôi sống anh trong suốt phần còn lại của cuộc đời. Thành trong Gần như là sống cũng chung số phận với hai nhân vật trên, mặc dầu tốt nghiệp chuyên ngành kiến trúc nhưng công việc của anh lại là quản lý hồ sơ. Một công việc chẳng liên quan gì đến chuyên môn. Không những thế, đời sống công chức nhạt nhẽo, đố kỵ, đấu đá đã đưa anh đến quyết định là phải thay đổi cuộc đời của mình, thay đổi để là chính anh. Rồi anh trở thành một họa sĩ bất đắc dĩ. Hội họa đem đến cho anh niềm vui và niềm ham sống. Hội họa làm sống dậy trong anh những ký ức về cảnh vật và con người, 14 giúp anh níu giữ những khoảnh khắc bình yên, những góc khuất tưởng như mịt mù quên lãng trong những năm tháng bon chen cơm áo và lối sống nhạt nhẽo tình người đã làm cho anh tưởng rằng là đã quên. Với nhân vật này, nghệ thuật dường như đã cứu xét một phần cuộc đời anh. Trong Con mắt rỗng, lần đầu tiên Đỗ Phấn xây dựng một chân dung nghệ sĩ trọn vẹn. Hơn thế nữa, Thế Hoàng là nghệ sĩ có bản lĩnh và ý thức được trách nhiệm của nghề nghiệp và quan trọng hơn, anh có đam mê. Sự đam mê cộng với tài năng đã đem đến cho anh một vị trí và thành công trong sự nghiệp. Anh là họa sĩ sống hết mình với đam mê và công việc. Đó là tất cả ý nghĩa đời sống của anh. Khi đã không còn đam mê nữa, anh chấp nhận từ bỏ cuộc sống. Đức trong Rụng xuống ngày hư ảo, mặc dầu đã năm mươi tuổi rồi nhưng vẫn chịu thân phận nhà báo hợp đồng. Tuy nhiên với sự sắc sảo trong công việc cộng với những kinh nghiệm của một nhà báo lâu năm đã đem lại cho ông một cuộc sống công chức tạm ổn, cũng ít nhiều “dăm ba bữa nhậu” với bạn bè. Cũng như các nhân vật đàn ông trung niên trí thức độc thân trong các tiểu thuyết trên mà chúng tôi khảo sát, Đức cũng chẳng mảy may tìm được sự yêu thích trong công việc nhà nước của mình, thậm chí là chán ghét và ghê sợ bởi những mưu mô và khuất tất thậm chí là vô đạo đức của cánh nhà báo. Thế nhưng, hắn muốn nghỉ việc người ta cũng không cho hắn nghỉ vì những quan hệ của hắn thậm chí ngay cả khi hắn bị ốm và có vấn đề về thần kinh. Chỉ đến khi hắn bị điên hẳn và kết thúc phần đời còn lại trong nhà thương điên thì chính thức hắn mới được nghỉ việc. Trong quan niệm của người Việt, thành công của một con người thể hiện ở ba phương diện công việc, tài sản và có gia đình riêng. Điều đó đã thể hiện trong câu ca dao từ ngàn xưa rằng “tậu trâu, dựng vợ, làm nhà/có ba thứ đó mới ra con Người”. Đó là trách nhiệm và cũng là thước đo giá trị của 15 người đàn ông. Thế nhưng trong năm nhân vật đàn ông mà chúng tôi khảo sát, cả năm nhân vật đều độc thân, mà lại độc thân ở tuổi xế chiều. Năm nhân vật này trong tiểu thuyết Đỗ Phấn đều mất niềm tin vào gia đình, hoặc tự cảm thấy mình không phù hợp với cuộc sống gia đình. Nhân vật Vũ trong Vắng mặt gần như mất hẳn niềm tin vào hạnh phúc gia đình “Từ lâu, mi đã không còn nghĩ đến một hạnh phúc theo kiểu gia đình. Nó cũng đầy rẫy những giả tạo chán chường. Như cuộc sống gia đình thằng Khoa, thằng Hà”. Cuộc sống vật vã cơm áo gạo tiền, những người vợ không chung thủy và những đứa trẻ con hư hỏng, mè nheo đã làm cho Kỹ sư Văn trong Rừng người thấy hôn nhân chỉ là sự ràng buộc và tiềm ẩn những nguy cơ giết mòn tình yêu và cả sự tự do, đó là một “Tưởng tượng ra cuộc hôn nhân với nàng, anh biết chắc phải đánh đổi những tháng năm vui vẻ bình an này lấy một cuộc sống gia đình mè nheo cơm áo cãi cọ như những người thành phố khác” [31; 41]. Nếu như sự tồn tại của con người chỉ là những bản ghi, những “sự việc” và con số, thì những giá trị về hôn nhân gia đình nó trở thành mô hình một mô hình đơn giản đến phũ phàng “mô hình hạnh phúc thị dân nhạt phèo như nó đã từng. Nó nhạt đến mức không cần dùng đến trí tuệ. Thức dậy quần quần áo áo con đực cõng con cái ra khỏi nhà trên chiếc xe máy mò lên phố ăn sáng uống cà phê. Ăn uống phải chia nhau cái cảm giác không vừa lòng bởi mỗi con có một ý thích khác. Chiều về chia nhau đón con tắm rửa cho chúng và ngồi vào mâm cơm vào lúc tám giờ tối. Cơm xong con đực nghiến răng ngồi xem phim tình cảm cảm dài tập của Hàn Quốc cùng con cái. Sau hai lần chảy nước mắt vì cuộc chia ly trên màn hình con cái bắt đầu ngáp vặt. Cả hai lên giường vùi mình vào giấc ngủ không cần đến mộng mơ. Gần sáng dậy làm một phát vội vàng không cảm xúc. Ngày nào cũng thế. Không cãi cọ chửi bới nhau là may lắm rồi” [32; 19]. Tiểu thuyết Đỗ Thích kỳ án của Phan Khánh Một tiếng nói góp phần khôi phục sự thật lịch sử NGUYỄN KHẮC PHÊ NVTPHCM- Một sự trùng hợp ngẫu nhiên thật có ý nghĩa Vào đúng lúc tỉnh Ninh Bình chuẩn bị kỷ niệm 1050 năm Nhà nước Đại Cồ Việt 968-2018 và mở Lễ hội Hoa Lư, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành Đỗ Thích kỳ án – tiểu thuyết lịch sử của Phan Khánh. Tuy tên sách là Đỗ Thích kỳ án, nhưng qua hơn 300 trang sách, tác giả đã đưa người đọc “sống lại” một giai đoạn lịch sử khá đặc biệt cách đây trên ngàn năm với sự kiện trung tâm là Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, lên ngôi hoàng đế, lập nên nhà nước Đại Cồ Việt với kinh đô là Hoa Lư, nhưng rồi bị Đỗ Thích ám hại dẫn tới việc nhà Đinh kết thúc và mở đầu thời Tiền Lê… Trong “Lời giới thiệu” tác phẩm, nhà văn Ma Văn Kháng viết “Đỗ Thích là kẻ đã giết hai cha con vua Đinh Tiên Hoàng năm Kỷ Mão 979. Và Phan Khánh không phải là người đầu tiên viết về kỳ án này. Có điều là, trong khi để tâm nghiên cứu, lặn lội vào chiều rộng và bề sâu của sự việc… không thỏa mãn với những gì người trước đã viết mà ông cho là phi logic, quá dễ dãi… Phan Khánh đã cất công tìm hiểu thêm Việt sử lược, Tổng sử Giao Châu truyện cùng nhiều tài liệu văn bản khác, để từ đó và cuối cùng trình bày, miêu tả lại sự kiện, với mục đích chân thành là góp một tiếng nói nhằm khôi phục lại sự thật lịch sử như nó vốn có…”. Một thời kỳ xa tít tắp, một vùng đất thường gọi là “quận Giao Chỉ”, liên tục bị sự đô hộ của đế quốc Trung Hoa, mặc dù liên tục có những cuộc khởi nghĩa giành độc lập, từ Hai Bà Trưng, Bà Triệu, đến Lý Bí, Khúc Thừa Dụ, Dương Đình Nghệ…; mãi đến sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938, Ngô Quyền xưng vương đóng đô ở Cổ Loa, thiết lập một chính quyền tập trung – nhà nước Việt Nam thực sự độc lập. Tiếc rằng ngay khi Ngô Quyền mất năm 944, 12 lãnh chúa chia nhau đất nước và xâu xé lẫn nhau. Nhắc qua thời “tiền sử” trước khi nước Đại Cồ Việt ra đời để thấy công lao dẹp loạn 12 sứ quân của Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh. Nói cho công bằng, trong 24 năm làm nên cơ nghiệp họ Đinh từ 944 đến 968, những tướng lĩnh “bạn cờ lau” như Nguyễn Bặc, Đinh Điền, rồi Lê Hoàn và Đinh Liễn con trai cả của Đinh Bộ Lĩnh đã đổ không biết bao nhiêu là công sức đánh đông dẹp bắc mới có ngày cậu bé lấy hoa lau làm cờ bày trận ở Đàm Thôn được xưng là “Đại Thắng Minh hoàng đế”. “… Mùa đông năm Mậu Thìn, hoàng thành Hoa Lư cơ bản xây xong, Vạn Thắng Vương quyết định đặt tên nước là Đại Cồ Việt… Nhà vua cũng chấp nhận danh hiệu “Đại Thắng Minh hoàng đế” mà quần thần tôn xưng… Rằm tháng chạp năm Mậu Thìn, Vạn Thắng Vương làm lễ đăng cơ, cả nước vui mừng lễ hội cho đến hết Tết Nguyên đán. Kinh thành Hoa Lư cờ hoa rực rõ, lễ hội liên miên. Các quan thứ sử, trấn thủ cùng các tướng lĩnh trụ cột đều được triệu về kinh đô, đất nước đã yên bình…” Do chính sử viết về giai đoạn này khá sơ lược, nên đọc Đỗ Thích kỳ án, độc giả thú vị được Phan Khánh “lôi kéo” vào mọi “ngõ ngách” rối rắm, phức tạp của “hậu cung đình”, “tận mắt” chứng kiến rất nhiều những sự tích cả ngàn năm vẫn là những “khoảng mờ” trong lịch sử, trong đó có “nghi án” Đỗ Thích – tất nhiên là theo tưởng tượng hay “hư cấu” của tác giả. Theo dã sử và giai thoại thì nhân vua say yến ban đêm, Đỗ Thích đã dâng vua đĩa lòng lợn rất ngon có tẩm thuốc độc! Như thế thì quả là “quá dễ dãi”; hơn thế, còn “dung tục hóa” nếu không muốn nói là hạ thấp vị thế nhà vua. Cả Đại việt sử ký toàn thư cũng chép Đỗ Thích làm chức lại ở Đồng Quan, đêm nằm trên cầu, bỗng thấy sao sa rơi vào miệng, Thích nghĩ là mình có mạng đế vương, nên ám hại cha con họ Đinh để lên ngôi nhưng rồi bị Đinh Quốc công Nguyễn Bặc bắt được đem giết… Sử gia viết thế cũng khá là “dễ dãi” nên tác giả Phan Khánh đã dày công xây dựng Đỗ Thích là một tên Hán gian khôn ngoan giấu mình bao năm chờ cơ hội nhà Đinh có mâu thuẫn sẽ ra tay, tạo cớ cho nhà Tống động binh tiến đánh Đại Cồ Việt. Sự “hư cấu” như thế là có cơ sở vì các triều đình Trung Hoa không bao giờ từ bỏ âm mưu thống trị hoặc đồng hóa nước ta. Chính sư phụ Bá Nguyên – người chủ trò “gài” Đỗ Thích tên thật của y là Hầu Nhân Đức sang đất Giao Chỉ đã huỵch toẹt mưu đồ đó “… Lần này Nhân Đức sang Giao Chỉ là mang lệnh của Hầu Nhân gia hiện là kiềm hiệu Thái sư miền Lĩnh Nam của Tống triều. Không những là bao gồm toàn bộ đất đai của Nam Hán mà cả Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Lâm ấp cho đến Phù Nam, Xiêm La… Tống triều quyết dùng mọi thủ đoạn… có thể cả đánh dẹp. Nhưng chủ yếu là đồng hóa tư tưởng. Chú trọng cả hai mặt Đồng hóa dòng máu và đồng hóa tư tưởng. Trong đó đồng hóa tư tưởng là quan trọng nhất, một lúc làm được nhiều người. Ngàn năm sau cũng không có chuyện nổi dậy vì nổi dậy để chống ai? Nổi dậy có nghĩa là phản quốc, “bài Hoa là phản quốc”…” Đọc chuyện ngàn năm trước, ngẫm lịch sử xưa nay mà thấy ghê sợ với mưu đồ Đại Hán. Với toan tính thâm hiểm ấy, Đỗ Thích đóng vai thầy tu đi khắc kinh Phật khắp nơi, tỏ ra thông tuệ vô cùng nên đã được Đinh Tiên Hoàng coi như “cố vấn”, nhưng hắn tỏ ra khiêm nhường chỉ nhận chức “Chi hậu nội nhân”, có thể vào ra cung cấm như người thân của Hoàng đế. Đó chính là điều kiện mà tên Hán gian ao ước. Chỉ còn chờ cơ hội… Cơ hội đó là lúc Đinh Tiên Hoàng “mắc mưu” Đỗ Thích “cố vấn” theo gương các vua Tàu lập đến mấy hoàng hậu, từ đó “bỏ trưởng lập ấu”, chọn thái tử kế vị là cậu bé mới 4 tuổi, yếu ớt; rồi “không may” cậu ta rơi xuống giếng chết. Thế là tiếng đồn lan truyền rằng Đinh Liễn – người con cả tài giỏi có công đầu dựng nghiệp nhà Đinh vì ghen tức không được phụ hoàng chọn kế vị đã mưu sát em trai! Không ai biết chắc dư luận ấy khởi phát từ Đỗ Thích hay Lê Hoàn, vị tướng giỏi đang chờ cơ hội lên ngôi! Thật may là Đinh Tiên Hoàng tỉnh táo, không nghe những lời đồn ác ý đổ tội cho Đinh Liễn. Đỗ Thích lo ngôi vua kế vị vào tay Đinh Liễn tài giỏi thì triều Tống khó nuốt được Đại Cồ Việt, nên lợi dụng đêm khuya vắng vẻ, bất ngờ tung “chưởng” ác hiểm mà bấy lâu y dùng phép “tán khí” để che giấu võ công thượng thặng của mình giết chết cả Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn, rồi dùng khinh công vượt khỏi cấm cung, chạy thoát về phương Bắc… Sau đó thì “tấn kịch” Thái hậu Dương Vân Nga với Lê Hoàn diễn ra như trên các sân khấu những năm gần đây, tuy cách đánh giá về hai nhân vật này từ xưa đến nay còn nhiều khác biệt. Ngay cả sử gia Ngô Sĩ Liên cũng cho Lê Hoàn “bất trung, ép vua, cướp thái hậu”; nhưng lại có người ca ngợi Lê Hoàn là tướng tài và có công đánh bại quân Tống cả thủy lẫn bộ… Trở lại với Đỗ Thích kỳ án, nhà văn Ma Văn Kháng, trong “Lời giới thiệu” đã dẫn, cũng cho rằng “Cũng là hợp với logic lịch sử và cuộc sống, theo thiển nghĩ, khi tác giả lý giải Đỗ Thích chính là gián điệp nhà Tống…” Điều này hẳn là bạn đọc và các nhà nghiên cứu còn có những kiến giải khác nhau. Đó cũng là chuyện thường, khi sự thật đã bị cả ngàn năm che phủ… Cho dù vậy, Đỗ Thích kỳ án – ngoài sức hấp dẫn của lối viết theo kiểu tiểu thuyết võ hiệp với khung cảnh huyền ảo những núi cao vực thẳm, hang động, chùa chiền và “góp một tiếng nói nhằm khôi phục lại sự thật lịch sử” – còn gợi chúng ta suy ngẫm về những điều khá hệ trọng trong cuộc sống hôm nay. Đó là sự cảnh báo rằng khi thế giới còn những kẻ ôm mộng bá quyền thì chúng ta không bao giờ chủ quan, mất cảnh giác – không chỉ với mưu đồ xâm lược bằng vũ khí mà cả với những âm mưu thôn tính, đồng hóa bằng truyền bá tư tưởng, văn hoá, di dân, núp dưới các chiêu bài đẹp đẽ. Và việc hai triều Ngô và Đinh, từ đỉnh cao chiến thắng mau chóng suy tàn cũng là sự cảnh báo nạn “nội xâm” khởi phát từ tệ mê đắm quyền lực, giàu sang của các gia tộc, phe nhóm dẫn đến bị kịch “bó đũa” khi bị tách ra từng chiếc! Câu chuyện ngàn năm xưa mà nóng hổi tính thời sự! VĂN NGHỆ, 15/2018 >> XEM TIẾP THẾ GIỚI SÁCH… Post Views 158 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOTRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI--TRẦN THỊ KIM GIANGCỐT TRUYỆN TIỂU THUYẾT“DON QUIJOTE” CỦA CERVANTESChuyên ngành Văn học nước ngoàiMã số VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂNNgười hướng dẫn khoa học PGS. TS Đỗ Hải PhongHÀ NỘI - 2014Lời cảm ơnEm xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Đỗ Hải Phong,người thầy đã hướng dẫn em chu đáo, nhiệt tình trong suốt quá trình làm luận xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong tổ văn học nướcngoài, khoa Ngữ văn, phòng Quản lý khoa học, thư viện trường Đại học Sưphạm Hà Nội, phòng tư liệu khoa Ngữ văn đã nhiệt tình giúp đỡ em trongsuốt quá trình học tập và nghiên Nội, ngày….tháng….năm 2014Tác giả luận vănTrần Thị Kim GiangMỤC LỤCMỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tàiThời đại Phục Hưng, bước quá độ từ chế độ phong kiến lên tư bản chủnghĩa mà Engels đã đánh giá “Đó là bước ngoặt tiến bộ, vĩ đại nhất từ trướcđến bấy giờ loài người chưa từng thấy”. Thời đại Phục Hưng hình thành nênmột nền văn hoá mới và những con người mới. Đó là những con người khổnglồ về tư tưởng, về tính cách, về tài năng mọi mặt và sự hiểu biết sâu rộng. Tấtcả tạo nên một nền văn hoá Phục Hưng đặc sắc, với nhiều thành tựu trong cáclĩnh vực khác nhau như điêu khắc, hội hoạ, kiến trúc, khoa học tự nhiên, kinhtế, xã hội, văn học... Đặc biệt trong lĩnh vực văn học xuất hiện nhiều nhà văntiến bộ, vĩ đại như Dante, Boccaccio, Rabelais, Shakespeare, Cervantes...Cervantes 1547 - 1616, ¹i biÓu xuÊt s¾c nhÊt cña v¨n häc Phôc hng T©yBan Nha. “Cervantes là tên của ngôn ngữ chúng tôi ngôn ngữ của Cervantes, làtên của cơ quan có nhiệm vụ truyền bá tiếng Tây Ban Nha viện Cervantes, têncủa các giải thưởng giành cho những viên ngọc tiếng Tây Ban Nha các giảithưởng Cervantes và chắc chắn đó là tên của rất nhiều đường phố, quảng trường,trường học và các cơ quan rải trên khắp thế giới” [9,27]. Ông không chỉ là một tácgiả tiêu biểu của văn học Phục hưng Tây Ban Nha mà còn là một trong những tácgia lớn nhất của văn học thế giới – “với Cervantes đã hình thành một nền nghệthuật châu Âu vĩ đại” [10, 28]. Tên tuổi của Cervantes luôn gắn liền với tiểuthuyết “El Ingenioso Hidalgo Don Quixote de la Mancha” “Don Quijote nhà quýtộc trứ danh thuộc dòng Hidalgo xứ Mancha”; từ đây trong luận văn này chúng tôixin được gọi tắt là “Don Quijote”.Cuối thế kỉ XVI, thời kì cuốn “Don Quijote” ra đời cũng là lúc đếquốc Tây Ban Nha bắt đầu suy vong và đến triều đại Sáclơ II thì thời kì oanhliệt của Tây Ban Nha đã chính thức kết thúc. Tình hình xã hội được phảnánh vào trong văn học như một quy luật tất yếu. Nó là tiền đề, là đề tài và1nguồn cảm hứng sáng tác cho văn nghệ sĩ. Văn học Phục Hưng Tây BanNha thế kỉ XVI-XVII không suy thoái cùng chiều với kinh tế xã hội mà đạtđến đỉnh cao nhất của nó. Cuốn tiểu thuyết “Don Quijote” ra đời vào hoàncảnh đó. Nó là “sự hội tụ và kết tinh những truyền thống quý báu mà vănhọc Tây Ban Nha nói chung và tiểu thuyết Tây Ban Nha nói riêng, đến lúcbấy giờ đã xây dựng lên được”. “Don Quijote” đã trải qua cuộc thử nghiệmtrong suốt 400 năm ngay từ khi mới ra đời để đến hôm nay, giá trị của tácphẩm đã được khẳng định vững chắc. Nó là tác phẩm có vị trí đặc biệt trongnền văn học thế giới. “Cuốn tiểu thuyết này là một tấm gương thần phảnchiếu những tâm hồn cao thượng và được nhiều người coi là kiệt tác hàihước nhất thế giới” [29, 32]. Nó có sức thu hút rộng rãi đến mức “trẻ congiở ra xem, thanh niên đọc, người lớn hiểu và các cụ già tán thưởng” [29,32]. Marthe Robert - nhà phân tâm học người Pháp, trong cuốn “Tiểu thuyếtvề những cội nguồn và cội nguồn tiểu thuyết” viết năm 1972 đã đánh giá“Don Quijote” hiển nhiên là cuốn tiểu thuyết hiện đại đầu tiên” [20, 14].Genard de Cortanze còn khẳng định “Don Quijote” là “một thử thách củatiểu thuyết hiện đại trước khi tiểu thuyết hiện đại ra đời” [20, 14].Qúa trình tiếp cận cuốn tiểu thuyết “Don Quijote” đối với chúng tôi khôngphải một bước trọn vẹn mà là những bậc phân khúc trải dài theo thời gian. Nhữngnhân vật bất hủ trong cuốn tiểu thuyết đã bước thẳng từ trang sách ra giữa cuộcđời và có một sức sống lâu bền với thời gian. “Don Quijote” là sản phẩm đỉnh caocủa văn hóa nhân loại, kết tinh các giá trị truyền thống và thời đại. Để truyền đạtđược những giá trị của tác phẩm hay chính xác hơn là khơi được nguồn tìm hiểucho học sinh của mình chỉ thông qua sự đúc kết của một giờ học đoạn trích trongchương trình phổ thông. Đó là động lực thúc đẩy chúng tôi khám phá tác phẩmmột cách kĩ lưỡng hơn và kết tinh lại. Cũng chính từ khi đi “đào sâu” tác phẩm,chúng tôi càng thực sự tìm thấy niềm yêu thích, kính trọng tác giả Cervantes, say2mê cuốn tiểu thuyết bất hủ của mọi thời đại ấy hơn. Đối với chúng tôi việc tìmhiểu tiểu thuyết “Don Quijote” là một niềm thích thú rất thực việc nghiên cứu "Cốt truyện tiểu thuyết “Don Quijote” củaCervantes" chúng tôi mong muốn góp thêm một tiếng nói và nghiên cứu mớivề một kiệt tác của văn học nhân loại - tác phẩm “Don Quijote”. Để từ đó tiếptục khẳng định vị trí của tiểu thuyết “Don Quijote” và nhà văn Cervantes trongnền văn học thế giới. Chúng tôi muốn góp phần tìm hiểu giá trị nội dung vànghệ thuật của tiểu thuyết “Don Quijote”, từ đó phục vụ việc giảng dạy tácphẩm này trong chương trình Phổ thông cơ sở - Ngữ văn lớp 8. Chúng tôi cótham vọng làm cho những người đã yêu thích “Don Quijote” thêm yêu và hiểuhơn về nó, những người chưa tìm hiểu về “Don Quijote” có thêm một động lựcđể khám Lịch sử vấn đềHơn 400 năm kể từ khi cuốn tiêu thuyết ra đời, nhận định của các nhànghiên cứu qua các thời kì cũng rất khác nhau. Do trình độ ngoại ngữ hạn chếchúng tôi không có điều kiện khảo sát tổng thể quá trình nghiên cứu vềCervantes và “Don Quijote”. Trên cơ sở những tài liệu tiếng Việt chúng tôitổng kết một số vấn đề đặt ra trong quá trình nghiên cứu..Trong "Lời giới thiệu" về tiểu thuyết “Don Quijote” dịch giả TrươngĐắc Vỵ đã nói về cuộc đời và tài năng văn học của Cervantes. Ông đặc biệtchú trọng giới thiệu nguồn gốc và giá trị cũng như vị trí của tác phẩm “ DonQuijote” trong nền văn học Tây Ban Nha nói riêng và văn học nhân loạinói chung. Trương Đắc Vỵ đặc biệt nhấn mạnh vào lý tưởng và khát vọngcao đẹp của nhân vật Don Quijote - chàng hiệp sỹ dũng cảm luôn mongmuốn mình có thể đem lại cuộc sống yên vui, hạnh phúc cho mọi muốn “trả thù cho những người bị xúc phạm, bờnh vực kẻ hèn yếu,uốn nắn những điều sai trái, phi lý, đã phá mọi lạm dụng bất công” [14, 6].3ú chớnh l l sng chng ra i tỡm kim nhng cuc phiờu lu tngchng nh iờn r hi thõn hi ngi nhng li cú lý tng vụ cựng caop hỡnh thnh nờn nhng cõu chuyn phiờu lu ca Don Quijojte vSacho Pansa. Nh vy li gii thiu ca dch gi Trng c V ó cho tathy nguyờn nhõn ct lừi ca vic hỡnh thnh nờn nhng cõu chuyn phiờulu l ct truyn chớnh ca tỏc trỡnh Vn hc phng Tõy - nxb i hc Hu - nm 1996 ó dnhs lng trang tng i ln ỏnh giỏ mt cỏch khỏi quỏt v vn hc thik Phc Hng v tiu thuyt Don Quijote ca Cervantes. Trong tỏc phmDon nh vn ó dng lờn mt bc tranh sinh ng v hin thc xó hi TõyBan Nha thi by gi thụng qua nhng cõu chuyn hi hc ca ụn trỡnh ch ra rng Don Quijote a ra nhiu quan nim mi m v cỏcvn xó hi, tụn giỏo, hụn nhõn v gia ỡnh, tỡnh yờu v hnh phỳc, vn hcv ngh thut... c tỏc gi khộo lộo v lng ghộp, an ci[48,247]. Quanhng cõu chuyn phiờu lu hip s ca thy trũ Don Quijote nhng vn vlý tng xó hi, tụn giỏo, phong tc; nhng cõu chuyn mc ca say sa vhụn nhõn, tỡnh yờu, gia ỡnh, hnh phỳc; nhng cõu chuyn bm nghch cagii cn bó, bn thng tr phong kin v tng lp tng l quý tc c phibyGiáo trình "Văn học phơng Tây" đã thâu tóm đợc những thành công củatác phẩm, ni dung chớnh ca tỏc phm nhng ch dng li vic ỏnh giỏkhỏi quỏt m cha ch ra h thng ct truyn t nhng vn ó nờu nghiờn cu lý lun v phờ bỡnh M. Bakhtin ó a ra nhn nhxỏc ỏng v Don Quijote Tt c nhng ci xay ngi khng l, tim nlõu i, n cu i quan k s, ch tim n lónh chỳa lõu i, gỏi iờmquý nng Tt c nhng cỏi ú chớnh l mt cuc ci trang in hỡnh,bin húa theo logic o ngc trn ỏnh v chin trng thnh nh bp vba tic liờn hoan, v khớ v m st thnh lm bp v chu co rõu, mỏu thnh ru nho... [3,179]. Trong nhn nh ca mỡnh, Bakhtin ch ra tớnh4chất nghịch dị trong tác phẩm, một yếu tố quan trọng xuyên suốt cốt truyệnnhưng chưa định hướng bao quát được toàn bộ nội dung cốt cái nhìn hậu hiện đại, M. Kundera trong bài viết “Di sản bị mất giácủa Cervantes” đã đưa ra suy ngẫm về các câu chuyện phụ trong “DonQuijote”, tác giả đã chỉ ra khuynh hướng phá vỡ dòng chảy tuyến tính mộtdòng trong tác phẩm “Tiểu thuyết đã tìm cách thoát ra khỏi tính một dòng đểmở những dòng kể đột phá trên dòng kể liên tục một câu chuyện” [29, 77].Đó là một nhận định quan trọng để xem xét vấn đề cốt truyện trong tác phẩmvới hệ thống cốt truyện chính và những câu chuyện trình dài hơi đầu tiên ở Việt Nam hơn 100 trang, bài viết kỉ niệm350 năm ngày sinh cuốn tiểu thuyết “Don Quijote” đã thể hiện cái nhìn toàndiện về tác phẩm “Don Quijote” cả về nội dung và nghệ thuật. Tác giả khẳngđịnh “Từ khi Đông Ki sốt xuất hiện trên văn đàn, thì lối văn kị sĩ dần dần tiệtnọc. Hứng thú thông thường của người độc giả cũng đổi mới hẳn… Cervantesđã thành công vẻ vang cả về hai phương diện phá hoại và xây dựng” [35,184]. GS. Đặng Thai Mai trong công trình này có bàn về tính nhân dân, nhânvật điển hình Don Quijote, Sancho Panza… đã đề cập đến nhiểu vấn đề cốtlõi của tác phẩm và ít nhiều đưa ra định hướng về việc tiếp cận tác phẩm từgóc độ câu truyện phiêu lưu hiệp sĩ của hai thầy trò Don đó là hàng loạt những bài nghiên cứu của những tác giả Đỗ ĐứcDục, Đào Duy Hiệp, Lương Duy Trung,… Nhìn chung có sự gặp gỡ tươngđối của các tác giả trong những nhận định về ý nghĩa, giá trị tác phẩm, songchủ yếu tập trung vào một số vấn đề nhất định, quen thuộc Cặp đôi nhân vậtDon Quijote và Sancho Panza với những tương phản và tương đồng; vấn đề lýtưởng và thực tế; tiếng cười đả kích các thể loại hiệp đây các nhà nghiên cứu đã đi vào tìm hiểu toàn diện hơn tiểu thuyết“Don Quijote”, phát hiện những khía cạnh nghệ thuật mới mẻ, khám phá chiều5sâu tư tưởng tác phẩm và đặc biết gắn việc tìm hiểu tác phẩm vào thực tiễngiảng dạy trong trường phổ thông. Nhà nghiên cứu Đỗ Hải Phong và LêNguyên Cẩn trong cuốn “Tác gia tác phẩm văn học nước ngoài trong nhàtrường phổ thông – tác gia Cervantes” đã chỉ ra những nhận định, hướng đánhgiá tiếp cận tương đối hoàn chỉnh về cuốn tiểu thuyết này dành cho giáo viênvà học sinh trung học. Trong đó có đề cập đến nhiều vấn đề “Lí tưởng và thựctại đời sống hay “Don Quijote” và các loại hình tiểu thuyết trước đó”, “cặpnhân vật lưỡng hóa Don Quijote và Sancho Panza hay lí tưởng được thực tếhóa và thực tế vươn lên tầm lí tưởng”... đó là những vấn đề có tính chất địnhhướng khi nghiên cứu cốt truyện. Nhà nghiên cứu Lê Nguyên Cẩn đã chỉ ra“Tính chất trò chơi trong thi pháp tiểu thuyết “Don Quijote” và khẳng định“Thủ pháp trò chơi làm sống lại tinh thần lễ hội cacnaval với tiếng cười dângian khỏe mạnh đầy tính chiến đấu... thủ pháp trò chơi tạo nên một đặc điểmquan trọng của thi pháp tiểu thuyết này” [13, 21]. Hải Phong vớinghiên cứu “Nguyên tắc trần thế hóa nhân vật lí tưởng trong “Don Quijote”củaCervantes và “Thằng ngây” của Dostoevsky và “Cặp nhân vật Don Quijote vàSancho Panza trong tiểu thuyết “Don Quijote” của Cervantes là những bàinghiên cứu rất có giá trị trong việc nhận định về cặp nhân vật bất hủ trong tácphẩm “Chất nghịch dị của cặp nhân vật Don Quijote và Sancho Panza thể hiệnở chất lưỡng tính, sự kết hợp kì quái các đối cực và vận động biến hóa, hìnhthành không ngừng của nó trong một chỉnh thể gây cười” [40, 13].Công trình “Cái Groteque trong tiểu thuyết “Don Quijote” củaCervantes” – Nguyễn Thị Thúy Hà chủ yếu tập trung vào các vấn đề khai thácsâu tiếng cười, cái nghịch dị trong hình tượng nhân vật Don Quijote vàSancho Panza, các kiểu lễ hội cacnaval…. Đó đều là những vấn đề hấp dẫn,ghi dấu ấn của tác phẩm nhưng chưa tập trung vào vấn đề cốt truyện một cáchkhoa học, bài bản, hệ thống chi các tài liệu đã tham khảo được, chúng tôi nhận thấy rằng vấn đề"Cốt truyện tiểu thuyết “Don Quijote” của Cervantes" đã được nhiều bàinghiên cứu đề cập đến nhưng còn rải rác, chưa tập trung và sắp xếp thành mộthệ thống rõ ràng, mạch lạc thuận tiện trong việc tiếp nhận. Trong phạm vi củamột luận văn, chúng tôi không dám khẳng định sẽ đưa ra được đầy đủ, sâu sắcmọi khía cạnh của vấn đề. Nhưng dựa trên cơ sở những công trình của các tácgiả vừa nêu trên và những tài liệu khác đã khảo sát được, chúng tôi mong muốnđược đưa ra quan điểm, cách đánh giá, phân tích của mình về vấn đề Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và giới thuyết khái Giới thuyết khái niệmTrong tác phẩm tự sự và kịch, cốt truyện là một phần quan trọng vàchính yếu. Trên cơ sở cách hiểu thuật ngữ cốt truyện từ xưa đến nayer;margin-top 10px; height 280px;">thành phần khác với những lí do có tính chất hình thức. Cần tìm hiểu vàphân tích sự xây dựng cốt truyện có thể hiện được những xung đột xã hội,sự phát triển của nó có phù hợp với quy luật cuộc sống và có thể hiện đượcý đồ nghệ thuật của tác giả hay Đối tượng nghiên cứuCốt truyện “kết tinh truyền thống dân tộc, phản ánh những thành tựuvăn học của mỗi thời kì lịch sử, thể hiện phong cách và tài năng nghệ thuậtcủa nhà văn” [31, 100]. Bộ tiểu thuyết “Don Quijote” được Cervantes viết ra8với mục đích ban đầu là phê phán tiểu thuyết hiệp sĩ đương thời ở Tây BanNha, một loại sách “độc hại, bịa đặt, nhảm nhí” nhưng vẫn được nhiều ngườitán thưởng. Ông muốn tác phẩm của mình là “một lời thoá mạ dài đối với tiểuthuyết hiệp sĩ”. Nhưng ý nghĩa của tác phẩm đã vượt xa dự định ban đầu củanhà văn. Tác phẩm đã phản ánh hiện thực đất nước Tây Ban Nha thời PhụcHưng, đã phê phán lý tưởng hiệp sĩ và qua đó đã phê phán xã hội phong kiếnlỗi thời. Tác phẩm đã thắm đượm tinh thần nhân văn của thời đại. Thành côngđó một phần được xây dựng từ hệ thống cốt tôi nhận thấy trong thiên tiểu thuyết Don Quijote, với hai tậptiểu thuyết quy mô đã trình bày hệ thống những câu chuyện phong phú, nhằmtái nhiều bình diện của đời sống xã hội cuối thời kì Phục hưng trên đất nướcTây Ban Nha nói riêng và châu Âu nói chung. Nhiều công trình nghiên cứu đãchỉ ra tên gọi của loại cốt truyện trong tiểu thuyết này cốt truyện biên niênhay cốt truyện lồng ghép. Cốt truyện biên niên là kiểu cốt truyện mà ở đó cáccâu chuyện diễn ra theo trình tự thời gian. Có thể lập một bảng niên biểu vềcác câu chuyện trong tác phẩm theo mốc tuần tự. Cốt truyện lồng ghép là kiểucốt truyện trong đó các câu chuyện đan cài vào nhau – tức là hệ thống các câuchuyện phụ tạo thành những tuyến song song, bổ trợ cho câu chuyện chínhnhằm giải quyết những vấn đề quan trọng được đặt ra trong tác phẩm. Cốttruyện chính xoay quanh cuộc hành trình phiêu lưu hiệp sĩ của hai thầy tròDon Quijote và Sancho Panza. Trên cuộc hành trình ấy họ đã gặp, đượcchứng kiến, được nghe kể rất nhiều những câu chuyện về tình yêu, cuộc sốngmục ca, của những kẻ dưới đáy xã hội…. Hệ thống các câu chuyện trong“Don Quijote” thường được xem xét trong mối tương quan với ba loại hìnhtiểu thuyết phổ biến trong thời kì Phục Hưng Tây Ban Nha tiểu thuyết hiệpsĩ, tiểu thuyết mục ca và tiểu thuyết bợm nghịch. Cốt truyện lồng ghép khiến9cỏc cõu chuyn c m rng trỏnh nhm chỏn v vỡ th gõy s hng thỳkhỏm phỏ cho ngi Phm vi nghiờn cu luận vn này, chúng tôi chỉ đi sâu vào tìm hiểu Ct truyn tiuthuyt Don Quijote a ra kin gii trong vic xõy dng h thng cttruyn mt cỏch tng i trn vn, kh dng trong vic tip nhn v cú cỏinhỡn bao quỏt c ton b tỏc phm. Chỳng tụi vn dng c hai khỏi nimct truyn biờn niờn v ct truyn lng ghộp ó c ch ra. Trờn c s ú,chỳng tụi ó chia tỏch h thng cỏc cõu chuyn thnh ba nhúm chớnh cõuchuyn phiờu lu hip s ca Don Quijote v Sancho Panza; cỏc cõu chuynmc ca; cỏc cõu chuyn bm quỏ trỡnh nghiờn cu, chỳng tụi s dng bn dch ting Vitụn Kihụtờ nh quý tc ti ba x Mantra dch gi Trng c V, NXBVn hc, tỏi bn nm Phng phỏp nghiờn cuPhng hng tip cn i tng nghiờn cu ca chỳng tụi ch yutip cn h thng v thi phỏp hc. Trong quỏ trỡnh nghiờn cu, chỳng tụi sdng nhng phng phỏp c th nh phng phỏp kho sỏt thng kờ, phõntớch, tng ra, chỳng tụi cũn s dng c mt s phng phỏp nghiờn culiờn ngnh vn hc - lch s, vn hc - vn hoỏ, tõm lớ Cu trỳc lun vnNgoi phn m u v kt lun, lun vn ca chỳng tụi chia lm 3 chngChng 1. Ct truyn phiờu lu hip sChng 2. Hip s trong cỏc mi quan hChng 3. Ct truyn mc ca v ct truyn bm nghch10* Chú thích- Trong luận văn tất cả các tên nhân vật, địa danh trong tác phẩm “DonQuijote” chúng tôi ghi lại theo đúng nguyên bản tiếng Tây Ban Nha quanguồn tài liệu“ EL ingenioso hidalgo don Quijote de la Mancha”//Edicions digital del instituto Cervanres y dirigida por Francisco Rico//Http//cvc. obref/ 1CỐT TRUYỆN PHIÊU LƯU HIỆP SĨCâu chuyện phiêu lưu hiệp sĩ của hai thầy trò Don Quijote và SanchoPanza được dựng từ cốt truyện của loại tiểu thuyết hiệp sĩ phổ biến, được ưachuộng trên đất Tây Ban Nha cũng như một số nước Tây Âu khác thời kìbấy giờ. Tiểu thuyết hiệp sĩ đã xuất hiện từ thời Trung cổ, đến thời sơ kìPhục Hưng đặc biệt là ở Tây Ban Nha tính chất phiêu lưu và khát vọng lậpchiến công trở thành tinh thần thời đại, thể loại tiểu thuyết hiệp sĩ được táisinh. “Cái nổi lên hàng đầu ở tiểu thuyết hiệp sĩ là sự phân tích tâm lý nhânvật chính - hiệp sĩ được mô tả cá thể hóa, họ lập nên chiến tích không phải vìtên tuổi dòng họ hay bổn phận chư hầu mà là vì danh dự của mình và vì vinhquang của người tình” [37, 284]. Trong nửa đầu thế kỉ XVI tiểu thyêt hiệp sĩtràn ngập thị trường sách vở Tây Ban Nha và Châu Âu. Thể loại tiểu thuyếtnày chuyên mô tả những chuyện hoang đường, rùng rợn phi lý của các hiệpsĩ giang hồ. Hình thức ly kỳ và những cuộc phiêu lưu tưởng tượng của loạitiểu thuyết này làm cho người đọc mê muội, chìm đắm trong những câuchuyện hoang đường không quan tâm đến thực tại. Những cuốn tiểu thuyếthiệp sĩ tôn vinh “hiệp sĩ là những người bảo vệ kẻ yếu, vô tư và trung thựctrong thi đấu cũng như trong chiến đấu, lịch sự, tao nhã, lạc quan và tinh tế”[11, 372]. Đó là những con người mang lý tưởng của thời đại. “Yếu tốkhông thể thiếu được của tiểu thuyết hiệp sĩ là các cuộc phiêu lưu, mô tip cơbản là quá trình trưởng thành của một hiệp sĩ chân chính, muốn được nhưvậy hiệp sĩ phải lập được những chiến công mạo hiểm bất chấp hiểm nguyđến tính mạng, đánh nhau với ác quỷ, thậm chí phải phiêu lưu xuốn tận địangục. Người hiệp sĩ phải thực hiện những chiến công đó không phải vì sựnghiệp chung của dân tộc như các nhân vật anh hùng ca mà vì danh tiếng cá12nhân” [11, 372]. Đến nửa sau thế ký XVI, tiểu thuyết hiệp sĩ thưa thớt dầnvà không thu hút được độc giả như trước. Cuốn tiểu thuyết “Don Quijote”của Cervantes ra đời “chế giễu tính chất tai hại và lỗi thời của tiểu thuyếthiệp sĩ, nhại lại phong cách tiểu thuyết hiệp sĩ là đòn kết liễu số phận củaloại tiểu thuyết này” [47, 170]. Thông qua cuộc phiêu lưu hiệp sĩ của nhânvật chính – chàng quý tộc nghèo Don Quijote và giám mã Sancho Panza, tácgiả Cervantes vừa khẳng định lý tưởng hiệp sĩ chân chính đáng trân trọngvừa đả kích giễu nhại tính chất lỗi thời lạc hậu của loại tiểu thuyết những cuộc phiêu lưu Don Quijote luôn thể hiện được lý tưởng hiệpsĩ chân chính nhưng lại chứa đựng nhiều yếu tố lỗi thời sách vở dập khuôntừ kho sách kiếm hiệp đã ăn sâu vào tiềm thức và suy nghĩ của chàng khiếnchàng có những hành động “điên rồ” “không tỉnh táo”. Sự kết hợp giữa lýtưởng hiệp sĩ chân chính và những yếu tố lỗi thời đã làm nên sức hấp dẫncho những cuộc phiêu lưu hiệp sĩ của Don Lý tưởng hiệp sĩ chân chính - tư tưởng vinh thânCuộc phiêu lưu hiệp sĩ của hai thầy trò Don Quijote và Sancho Panza làcâu chuyện chính, xuyên suốt trong toàn bộ tác phẩm. Don Quijote đã trải quaba chuyến hành trình, theo chúng tôi khảo sát diễn ra trong khoảng thời gianhơn một năm. Chàng bắt đầu chuyến phiêu lưu thứ nhất của mình “vào mộttrong những ngày tháng bảy nóng nực nhất” cho đến khi giám mã SanchoPanza viết thư về nhà ở chuyến ra đi thứ ba là “ngày 20 tháng 7 năm 1614”.Như vậy từ lúc chàng hiệp sĩ Don Quijote lên đường đến lúc Sancho viết thưvề nhà là tròn một năm. Từ lúc đó đến khi hai thầy trò kết thúc cuộc hànhtrình và về làng chỉ còn một khoảng thời gian ngắn nữa. Tuy chỉ diễn ra tronghơn một năm nhưng câu chuyện phiêu lưu của hai thầy trò vô cùng phong phúvà hấp dẫn với những chuyện vừa bi vừa hài đáng để chúng ta suy Quijote là con người của lý tưởng, hành trình ra đi của chàng là vì13lý tưởng cao đẹp mà chàng đã chọn “bênh vực kẻ hèn yếu, đạp bằng mọi giannguy” [I, 24]. Nói về lý tưởng của chàng, nhà nghiên cứu Đỗ Đức Dục đãđánh giá “Nói về lý tưởng thì rõ ràng anh ta có một lý tưởng cao cả, anh tađứng về phía những người nghèo khổ, những kẻ bị áp bức và nhất là anh ta cóđủ nhiệt tình, đủ lòng dũng cảm và tình kiên trì để hi sinh cuộc đời mà bảo vệlý tưởng của mình” [17, 61]. Cả cuộc hành trình của mình, chúng ta nhậnthấy, Don Quijote chưa bao giờ làm ngơ trước những cảnh đời khốn khó,những người nghèo khổ hay bị áp bức. Trên hết chàng không màng đến bảnthân, nguy hiểm chỉ để bảo vệ lý tưởng mà mình tôn thờ “Tôi là hiệp sĩ ở xứMancha là Don Quijote và công việc của tôi là đi khắp đó đây để bênh vực kẻhèn yếu, trả thù cho những người bị xức phạm” [I, 164]. Lý tưởng hiệp sĩchân chính của Don Quijote theo chúng tôi nhận thấy chủ yếu tập trung vàoba lý tưởng chính tự do – công bằng – hạnh phúc. Những lý tưởng này cũngchính là mục đích sống của con người, lý tưởng muôn đời và là ước vọng lớnnhất mà con người muốn hướng đến. Chung quy lại mọi hành động của chànghiệp sĩ Don Quijote cũng là để đem đến cho những người nghèo khổ, bị ápbức những điều đó.– đây là hành động nhân nghĩa vì người khác. Và để thựchiện được những lý tưởng này, chàng đã trải qua không ít những thử thách,gian nguy nhiều khi nguy hiểm đến cả tính mạng. Thế nhưng khi thực hiệnnhững “chiến công” của mình Don Quijote luôn mang tư tưởng “vinh thân”của các hiệp sĩ xưa – đó cũng chính là yếu tố lỗi thời đan xen trong lý tưởnghiệp sĩ chân Lý tưởng tự do – công bằng – hạnh phúcChủ nghĩa nhân văn - trào lưu tư tưởng văn hoá và văn học thời Phục Hưngở châu Âu đề cao con người, giải phóng cá nhân khỏi sự đè nén tinh thần củachế độ phong kiến, chống chủ nghĩa kinh viện và giáo hội, hướng con ngườivào xây dựng cuộc sống thực tại. Chịu ảnh hưởng và tiếp thu tinh thần nhân14văn dân chủ của văn học Phục Hưng, tiểu thuyết Don Quiijote của Cervantesđã thể hiện rõ tư tưởng tự do, giải phóng con người, đem đến cho con ngườiquyền làm chủ, quyền tự quyết số phận và vận mệnh của tự do hoặc tự do - là một khái niệm dùng để mô tả tình trạng khimột cá nhân không bị sự ép buộc, có cơ hội để lựa chọn và hành động theođúng với ý chí nguyện vọng của chính mình. Lý tưởng tự do là lý tưởngxuyên suốt mà cuộc đời Don Quijote hướng tới. Lý tưởng này cũng chính làmột trong những nguyên nhân quan trọng thôi thúc Don Quijote lên đường,thoát ra khỏi những tù túng ràng buộc ngay trong chính ngôi nhà, ngôi làng vànhững người thân thuộc của mình. Trên chặng đường phiêu lưu đầy giantruân của mình để đến cuối cùng chàng đã đúc kết và thấm thía “Tự do làmột trong những món quà quý nhất Chúa dành cho con người, những kho báunằm trong lòng đất hay dưới đáy biển cũng không thể so sánh được” [14, II,58]. Chỉ có tự do con người mới được là chính phát từ chính điều đó nên trên chặng đường hành trình DonQuijote đã ra sức giành lại tự do hay lên tiếng bảo vệ quyền được tự do củacon người. Chàng giải thoát cho những con người mà chàng cho là bị bắt cóc,cầm tù. Don Quijote đã đánh hai thầy tu dòng thánh Beneto vì tưởng rằng đólà bọn phù thủy bắt cóc nàng công chúa “Hai bóng đen lù lù kia là hai tên phùthủy đang bắt cóc một nàng công chúa mang đi. Ta phải hết lòng hết sức giảinguy cho nàng ngay” [14, I, 74]. Chàng giải cứu cho một đoàn tù khổ sai đểtrả lại tự do cho họ, lao vào đám rước đang làm lễ cầu mưa để giải cứu chomột bức ảnh Đức Mẹ mà chàng tưởng rằng đó là một phu nhân bị bắt sẵn sàng lao ra giữa dòng nước trên một con thuyền đến những chiếccối xay bột để giải cứu cho những hiệp sĩ chàng tưởng tượng ra… Đặc biệttrong câu chuyện được nghe kể và khi tận mắt chứng kiến cô gái Marcela yêutự do, chàng đã không ngần ngại lên tiếng bảo vệ và ủng hộ quyết định của15nàng “Không ai được đi theo nàng Marcela xinh đẹp, bất kể người đó ở địa vịnào và thuôc dòng dõi nào nếu không sẽ chịu sự phẫn nộ của ta…” [14, I,124]. Nàng Marcela sinh ra tự do và để sống được tự do nàng đã khiến baochàng trai si tình tuyệt vọng nhưng Don Quijote rất hiểu và cảm thông vớingười con gái vừa được si mê, vừa bị nguyền rủa ấy. Đồng điệu với khát vọngtự do chàng đã bảo vệ cô, ý thức được “phải mang cánh tay hiệp sĩ của mìnhra che chở cho người đẹp trong cơn nguy khốn”. Chàng khẳng định “chúng takhông nên theo đuổi và quấy rầy mà phải tôn trọng nàng” [14, I, 124] thậmchí còn “quyết định đi tìm cô gái chăn cừu Marxela những mong mang hếtkhả năng ra phụng sự nàng” [14, I, 124].Công bằng là đòi hỏi sự tương xứng giữa vai trò của những cá nhânnhững giai cấp với địa vị xã hội của họ, giữa hành vi với sự đền bù laođộng và thù lao, công và tội, thưởng và phạt, giữa quyền với nghĩa vụ không có sự tương xứng trong những quan hệ ấy là bất tiểu thuyết “Don Quijote” ước vọng công bằng dân chủ là mộtlý tưởng quan trong trong suy nghĩ của Don Quijote. Không phải tự nhiênmà đối tượng chàng luôn hướng đến là những kẻ nghèo khổ, những ngườibị áp bức, những cảnh đời bất hạnh… Chính họ là những con người thườngkhông nhận đươc sự công bằng trong xã hội. Trên chặng đường phiêu lưucủa mình, chàng hiệp sĩ Don Quijote đã thực hiện nhiều hành động nghĩahiệp chân chính để đem lại công bằng. Chàng bênh vực chú bé Andres bịchủ quỵt tiền và ức hiếp, chú đang phải nhận một trận đòn roi. Chàng đãlấy cái quyền uy dũng mãnh của hiệp sĩ giang hồ để dọa tên chủ trại “Ta làhiệp sĩ dũng sĩ xứ Mancha, chuyên đi bênh vực những kẻ hèn yếu và ngănchặn những điều sai trái, phải nhớ và làm đúng lời hứa nếu không ta trị tội”[14, I, 46]. Don Quijote xông vào một đám tang trong đêm tối để trả thùcho kẻ tử nạn mà chàng tưởng tượng đó là một hiệp sĩ như chàng – một16người mà chàng chưa từng gặp mặt. Không phân biệt là người hay vật, DonQuijote cho rằng mọi sự đều cần có sự công bằng. Chàng đã tấn công đámlái la để “trả thù” cho con lừa Rocinante của chàng bị họ đánh vì đã “trêughẹo” đám la cái của họ. Dù sau đó chàng bị một trận đòn nhừ tử do sựtương quan chênh lệch. Một lần nữa vì con Rocinante chàng đã định giaochiến với đám triều đình thần chết một gánh hát. Đặc biệt khi được chứngkiến câu chuyện tình yêu đầy cảm động giữa chàng Basilio nghèo và cô gáiKiteria xinh đẹp, đám cưới linh đình thể hiện sự giàu sang của khi Sancho Panza cho rằng “thời buổi ngày nay, thưa ông chủ DonQuijote, thiên hạ chuộng người có của hơn người có tài. Một con lừa mangđầy vàng còn hơn con ngựa mang bộ yên thường. Bởi thế tôi xin nhắc lại làtôi về phe Camacho vì rằng bọt nước hầm trong nồi của anh ta là ngỗng, làgà, là thỏ rừng, còn bọt nước hầm trong nồi của Basilio chỉ là nước lã màthôi” [14, II, 205]. Sancho Panza luôn miệng “Basilio nghèo nên phải chịuthiệt, con người ta càng nhiều của càng quý…” [14, II, 205]. Don Quijotevẫn giữ ý kiến riêng của mình, sẵn sàng ra tay bảo vệ “ Kiteria đã thuộc vềBasilio, Basilio cũng đã thuộc về Kiteria. Camacho có nhiều của cải bất cứlúc nào,ở đâu và bằng cách gì, chàng vẫn có thể dùng tiền để đạt được ýmuốn. Basilio không có gì khác ngoài con cừu nhỏ bé này, dù ai quyền thếđến đâu cũng không được cướp đi của chàng…” [14, I, 207]. Chàng khôngchỉ trả thù cho những sự bất bình, coi trọng những người nghèo khổ mà còntrả ơn với những người đã đối tốt với mình. Chàng gặp những người quýtộc sống cuộc sống điền viên vui thú đã đối xử tốt với hai thầy trò chàng,không biết làm gì hơn là ca ngợi vẻ đẹp của những cô gái mặc giả quần áomục đồng. Chàng muốn tất cả mọi người đi đường công nhận các cô gái làmĩ miều và lịch thiệp nhất dù kết quả là chàng bị một đàn bò mộng giàyxéo qua. Dù phải trả giá bằng chính sự đau đớn về thể xác Don Quiijote17vẫn quyết thực hiện lý tưởng mình đã đề ra. Với Don Quijote không cókhái niệm giàu nghèo, người vật… mà chỉ có sự công bằng và xứng Quijote nhìn nhận vấn đề công bằng rất xác đáng. Trên hành trình củamình, chàng đã can ngăn những người dân làng mang giáo mác sang làngbên để trả thù, lấy lại công bằng cho làng mình chỉ vì chuyện nhại tiếngkêu của một con lừa. Chàng cho rằng lẽ công bằng phải xuất phát từ nhữnglý do cao cả, chính vậy quan niệm về sự công bằng, lý tưởng công bằng và nhữnghành động của chàng hiệp sĩ Don Quijote vì công bằng là một nét đẹp trong lýtưởng hiệp sĩ cũng như của tinh thần hiệp sĩ thời cạnh lý tưởng tự do và công bằng thì lý tưởng hạnh phúc là điềumà Don Quijote luôn hướng tới. Con người được tự do, công bằng nếu hạnhphúc cuộc sống sẽ càng có ý nghĩa hơn. Ước vọng của Don Quijoote là làmsống lại thời đại hoàng kim “thời đại hạnh phúc và những thế kỉ hạnh phúc”.Cuộc sống hạnh phúc trong lý tưởng của Don Quijote không chỉ là cuộc sốnghạnh phúc trong tình yêu, mà còn là cuộc sống thân ái, hòa hợp, yên bình, ấmno… Hạnh phúc mà chàng tìm kiếm không chỉ là hạnh phúc cá nhân đơn lẻmà là hạnh phúc của tất cả mọi người. Vì lẽ đó mà khi gặp bất cứ một cảnhđời nào chàng cho là bất hạnh cũng đều ra tay cứu giúp. Ta hiểu vì sao DonQuijote chiến đấu với những bao rượu vang đỏ vì nghĩ rằng đó là tên khổng lồđộc ác đã hãm hại nàng công chúa Miconomicona và chiếm lấy vương quốcMiconomicon. Mặc dù chỉ là câu chuyện bịa của những người mong muốnđưa Don Quijote trở về làng nhưng chỉ cần nghe câu chuyện và lời cầu xin sựgiúp đỡ của “nàng công chúa” đáng thương ấy Don Quijote đã nhận lời lênđường ngay dù có phải nguy hiểm, dù có phải mất hơn một năm đi đường“Tôi xin tuyên bố nhận lời và ngay từ ngày hôm nay, nàng sẽ xua đuổi đượcnỗi ưu phiền và lấy lại được niềm hi vọng đã mất; với sự phù trợ của Chúa và18sự giúp đỡ của cánh tay này, nàng sẽ chóng thu hồi được giang sơn, trở lạingôi báu cũ dù có những kẻ phản nghịch muốn chống lại” [14, I, 308]. Chàngphá ngang vở kịch múa rối, làm tan tành những con rối trên sân khấu vì tưởngrằng chúng là bọn Moro đã bắt cóc vợ chàng hiệp sĩ Don Gaipherox khiến vợchồng chàng phải chịu cảnh chia lìa và truy đuổi gắt gao “chừng nào ta cònsống và có mặt tại đây, ta sẽ không cho ai đụng tới lông chân một hiệp sĩ nổidanh và yêu mãnh liệt như Don Gaipherox” [14, II, 257]. Khi ở tại lâu đài củahai vợ chồng công tước, nghe được câu chuyện của nữ bá tước Triphaldi dobà quản gia Dolorida đóng giả chàng đã sẵn sàng lên con ngựa gỗ mà vợchồng công tước dựng lên bất chấp sau đó bị phóng đi bằng hỏa tiễn và pháochịu nhiều đau đớn. Chàng làm tất cả là để giải trừ phép mọc râu của bà bátước và những người hầu cận. Vì hạnh phúc của người khác chàng sẵn lònglàm tất cả. Chàng thách đấu với một “hiệp sĩ” để bảo vệ danh dự và hạnhphúc của cô con gái bà quản gia Don Rodrighex “Tôi xin lãnh trách nhiệmcứu vớt con gái bà…Tôi sẽ đi tìm anh chàng bất lương nọ; một khi tim thấytôi sẽ thách thức và giết chết nếu anh ta không chịu thực hiện lời hứa. Côngviệc chủ yếu trong nghề nghiệp của tôi là tha thứ cho những kẻ nhún nhườngvà trừng trị những kẻ kiêu ngạo, tôi muốn nói là cứu vớt kẻ khốn cùng và trừkhử lũ hung bạo” [14, II, 493]. Không những chiến đấu, hi sinh vì hạnh phúccủa người khác, chàng còn sẵn sàng làm người hầu cận, bảo vệ họ. Chàng tựnguyện làm người canh giữ quán trọ mà chàng tưởng là lâu đài để cho mọingười có được một đếm yên giấc. Khi lý tưởng hạnh phúc, mong muốn hànhđộng vì người khác của chàng không thực hiện được, chàng buồn khổ, thấtvọng. Chàng đòi đi cứu người yêu của cô gái Moro là Anna Phelish nhưngkhông được mọi người tín nhiệm. Chàng phải nghỉ dưỡng sau cú ngã ngựa,được chứng kiến người khác hoàn thành tốt nhiệm vụ để gia đình cô gái Morođược đoàn tụ trong khi bản thân mình không giúp sức được gì chàng vô cùng19thất vọng “khốn khổ thân tôi, tôi không phải là kẻ chiến bại sao? Tôi khôngphải là kẻ bị ngã ngựa sao? Tôi không phải là kẻ không được mang vũ khítrong một năm sao? Còn hứa hẹn gì nữa! Còn huênh hoang gì một khi tôi chỉđược phép kéo sợi mà không được múa kiếm” [14, II, 618]. Lý tưởng hạnhphúc là tư tưởng nhân văn cao cả bởi lẽ đó là lý tưởng hành động vì ngườikhác, mong muốn đem lại niềm vui ,xua tan mọi nỗi ưu phiền. Don Quijote đãluôn ý thức được điều đó và hành động kiên quyết để thực hiện lý tưởng củamình “Ta quyết không thể và không nên coi những việc nhằm mục đích hạnhphúc là trò đùa” [14, II, 22].Tóm lại, lý tưởng tự do – công bằng – hạnh phúc là lý tưởng cao đẹpmà Don Quijote theo đuổi. Đó là một nhân sinh quan tích cực và tiến đã sống hết mình cho lý tưởng mình đã chọn. Những lý tưởng ấy đãthuộc về một “thời đại hạnh phúc và những thế kỉ hạnh phúc đã qua mà ngườixưa gọi là thời đại hoàng kim” [14, I, 89]. Thời đại mà Don Quijote nói đãthuộc về thời quá khứ đã xa hoặc chỉ có trong tương tưởng. “Thời kỳ thần tiênấy muôn sự đều là của chung… Thời ấy người ta sống thanh bình, thân ái, hòahợp… Thời ấy trên những thung lũng, những quả đồi có những cô gái chăncừu mộc mạc, xinh đẹp… Thời đó thật giả vàng thau không lẫn lộn. Công lýđược hiểu theo đúng nghĩ của nó” [14, I, 90]. Trong khition sticky;top 10px;width 300px; height 600px;"> 0 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRẦN KIM DŨNG HIỆN THỰC ĐÔ THỊ TRONG TIỂU THUYẾT ĐỖ PHẤN LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN NGHỆ AN - 2013 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRẦN KIM DŨNG HIỆN THỰC ĐÔ THỊ TRONG TIỂU THUYẾT ĐỖ PHẤN Chuyên ngành Lý luận văn học Mã số LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học TS. LÊ VĂN DƯƠNG NGHỆ AN - 2013 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU..........................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề...........................................................................................1 3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi tư liệu khảo sát.......................................3 4. Nhiệm vụ nghiên cứu................................................................................4 5. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................4 6. Cấu trúc luận văn.......................................................................................4 Chương 1. TIỂU THUYẾT ĐỖ PHẤN TRONG BỨC TRANH CHUNG CỦA VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI VỀ ĐỀ TÀI ĐÔ THỊ........................................................................................5 Sự thể hiện đề tài đô thị trong văn xuôi Việt Nam hiện đại...................5 Khái niệm đô thị..............................................................................5 Đề tài đô thị trong văn xuôi Việt Nam trước 1945 đến năm 1975 ...................................................................................................................8 Đề tài đô thị trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1975...................12 Một số tác giả tiêu biểu trong văn học Việt Nam từ 1975 đến nay viết về đề tài đô thị......................................................................................16 Ma Văn Kháng..............................................................................16 Nguyễn Việt Hà.............................................................................18 Hồ Anh Thái..................................................................................21 Phong Điệp....................................................................................22 Chu Lai..........................................................................................26 Đỗ Phấn - một cây bút có nhiều đóng góp cho văn học Việt Nam hiện đại qua mảng đề tài đô thị...................................................................28 1 Đỗ Phấn - vài nét về con người, cuộc đời và sự nghiệp................28 Hiện thực đô thị - đề tài nổi bật trong tiểu thuyết Đỗ Phấn..........29 Chương 2. CÁC PHƯƠNG DIỆN CHỦ YẾU CỦA HIỆN THỰC ĐÔ THỊ ĐƯỢC PHÁN ÁNH TRONG TIỂU THUYẾT ĐỖ PHẤN..................................................................................35 Sự xuống cấp của đạo đức, sự xáo trộn của các bảng giá trị................35 Sự cô đơn của con người......................................................................52 Sự xung đột giữa truyền thống và hiện đại..........................................62 Chương 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN HIỆN THỰC ĐÔ THỊ TRONG TIỂU THUYẾT ĐỖ PHẤN...........................................71 Tiểu thuyết như là sự tập hợp nhiều câu chuyện nhỏ...........................71 Bút pháp trào lộng, giễu nhại và nhãn quan ngôn ngữ hậu hiện đại .....................................................................................................................74 Nghệ thuật xây dựng không gian đô thị và xây dựng chân dung con người đô thị..........................................................................................77 KẾT LUẬN....................................................................................................84 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................86 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hiện thực đô thị là một đề tài không phải mới trong văn học Việt Nam hiện đại, nhưng từ những năm 80 của thế kỷ XX đến nay, nó đã được những người cầm bút quan tâm một cách đặc biệt. Chính sự quan tâm đó đã đưa đến nhiều kết quả đáng được ghi nhận, với một đội ngũ tác giả chuyên khai thác đề tài này và với những tác phẩm gây được tiếng vang rộng rãi trên văn đàn. Rõ ràng, đây là hiện tượng cần được tìm hiểu một cách sâu sắc, thấu đáo. Đỗ Phấn là một “ca” đặc biệt trong làng văn Việt Nam đương đại. Xuất thân là họa sĩ nhưng ông lại chọn văn chương như một điểm đến và có những thành công được văn giới thừa nhận, nhất là ở thể loại tiểu thuyết. Đô thị là đề tài chính trong tiểu thuyết của ông. Vậy, đâu là cái mới, là đóng góp riêng của Đỗ Phấn so với những nhà văn khác cùng quan tâm thể hiện đề tài này? Cho đến nay, đây còn là vấn đề chưa được chú ý nghiên cứu. Nói đến hiện thực đô thị thực ra chỉ là một cách để nói đến sự tồn tại của con người trong xã hội hiện đại với bao vấn đề nhức nhối của nó. Đỗ Phấn luôn ý thức được điều này. Bởi vậy, sáng tác của ông luôn gợi nghĩ đến những chuyện có tính phổ quát. Qua nghiên cứu tiểu thuyết Đỗ Phấn, hẳn nhiên ta sẽ có dịp hiểu thêm về những cách mà các nhà văn Việt Nam đã vận dụng để đưa tác phẩm của mình đạt tới tầm khái quát cao, đụng tới những vấn đề có ý nghĩa thời đại. 2. Lịch sử vấn đề Đối với nhiều người, trong đó có các nhà phê bình văn học, Đỗ Phấn có lẽ đang là một hiện tượng ít được biết tới. Vì vậy, những bài viết về tác giả này chưa nhiều. Tuy vậy, cũng có một số ít ý kiến đáng chú ý. 2 Tháng 10/2011 Dương Tử Thành trong bài Gã thị dân lạc lõng giữa 'Rừng người trên trang đã nêu lên tính mới, tính thời sự trong tiểu thuyết Đỗ Phấn “ ... Không phải ngẫu nhiên mà văn Đỗ Phấn nhận được sự cộng hưởng từ phía những người trẻ. Là bởi tính chất thời sự của vấn đề anh đặt ra, cách anh đào sâu vào những vấn đề của xã hội đương đại... luôn bám sát đời sống đương đại ... Có thể nói ít người theo đuổi, tha thiết với đô thị, nhìn nhận các vấn đề của đô thị một cách thấu triệt, mổ xẻ, tiên đoán, bắt bệnh cho nó nhiệt thành, cùng kiệt như Đỗ Phấn. Ở các tiểu thuyết của anh, người ta thấy một đô thị đang vỡ ra, đang bị cày xới, sục sạo trong cuộc chiến giữa bản thể và những lai tạp nhố nhăng”. Đoàn Ánh Dương, trong bài Lưỡng lự và chiêm nghiêm Văn nghệ, số 35 + 36 - 2011, đánh giá cao bút lực của Đỗ Phấn về mảng đời sống đô thị hiện đại “Trong mấy năm trở lại đây, từ hội hoạ chuyển sang lĩnh vực văn chương, Đỗ Phấn đã nhanh chóng khẳng định được bút lực của mình. Trong sáng tác của anh, đời sống đô thị hiện đại luôn hiện ra với nhiều dáng vẻ, khiến người đọc khó mà không suy ngẫm về nó … văn Đỗ Phấn sắc sảo đến chao chát trong việc lột tả hiện thực đời sống thị dân bát nháo”. Khẳng định những thành công của Đỗ Phấn ở phương diện kỹ thuật viết tiểu thuyết, Trần Nhã Thuỵ, trong bài Vừa nhớ vừa bịa, đăng cuối tiểu thuyết Vắng mặt Đỗ Phấn, Nxb Hội Nhà văn, 2010, viết “Không còn hư thực, lẫn lộn nữa, mà là vắng mặt. Con người soi gương và hốt hoảng không nhìn thấy khuôn mặt mình. Nhưng sản phẩm không “nói triết”, tác giả cũng loại trừ một lối viết ẩn dụ, hay huyền ảo, hay giễu cợt, hay luận đề… Tác giả chỉ tập trung làm rõ những tính chất của sự thật bằng cách lấy hiện thực làm chất lửa, và phổ lên đó cái giọng buồn, cái nụ cười thầm của mình”. Hoài Nam, trong bài Hai họa sĩ của làng văn Việt An ninh thế giới cuối tháng, số 133, tháng 9 - 2012, cho rằng “Đỗ Phấn viết cái gì và viết như 3 thế nào? “Đời sống thị dân bát nháo” - đó là một chủ đề trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn, một chủ đề nằm trong phối cảnh chủ đề rộng hơn đời sống đô thị như nó đang diễn ra. Trên phương diện này, so với những nhà văn như Hồ Anh Thái hay Nguyễn Việt Hà, Đỗ Phấn là người đến sau chính vì thế mà anh phải tìm và đã tìm được lối đi riêng của mình”. Bài Đỗ Phấn giữa chúng ta của Đoàn Ánh Dương đăng trên trang ra ngày 20/4/2012 đã đưa ra một số đối sánh, từ đó làm rõ thêm trong sáng tác của Đỗ Phấn như sau “... Nguyễn Việt Hà và Đỗ Phấn, đều từ các lĩnh vực khác muộn mằn đến với văn chương, mỗi người mỗi kiểu, mỗi cách và đều rất độc đáo. Ở Nguyễn Việt Hà, nó đọng ở cấu trúc nghệ thuật ngôn từ và ở Đỗ Phấn, nó lửng lơ ở ngoài cái cấu trúc ngôn từ nghệ thuật ấy ... Sáng tác của Đỗ Phấn không nhằm bày ra cho người đọc cấu trúc ngôn từ nghệ thuật, cũng không tham vọng cao đàm khoát luận về giá trị, tư tưởng, tự do, chân lý. Nó chỉ bày ra một sự thụ cảm cuộc sống một cách có nghệ thuật”. Trên đây là các bài viết về tiểu thuyết Đỗ Phấn tuy chưa nhiều nhưng đều có những đánh giá khá “chụm” về thành công mảng đề tài đô thị của ông. 3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi tư liệu khảo sát Đối tượng nghiên cứu Hiện thực đô thị trong tiểu thuyết Đỗ Phấn. Phạm vi tư liệu khảo sát Tiểu thuyết của Đỗ Phấn - Vắng mặt, 2010 Nxb Hội Nhà văn - Công ty Bách Việt. - Rừng người, 2010 Nxb Phụ nữ. - Chảy qua bóng tối, 2011Nxb Trẻ. - Gần như là sống, 2013 Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh Các sáng tác khác của Đỗ Phấn - Chuyện vãn trước gương 2005 Tản văn, Nxb Hội Nhà văn. 4 - Kiến đi đằng kiến 2009, Tập truyện, Nxb Phụ nữ. - Đêm tiền sử 2009, Tập truyện, Nxb Hội Nhà văn. - Thác hoa 2010, Tập truyện, Nxb Quân đội nhân dân. - Ông ngoại hay cười 2011, Tản văn, Nxb Lao động - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây. Sáng tác của các nhà văn khác Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà… để so sánh, đối chiếu 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn nhằm tìm hiểu - Tiểu thuyết Đỗ Phấn trong bức tranh chung của văn xuôi Việt Nam hiện đại về đề tài đô thị. - Chiêm nghiệm về hiện thực đô thị trong tiểu thuyết Đỗ Phấn. - Nghệ thuật thể hiện hiện thực đô thị trong tiểu thuyết Đỗ Phấn. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau - Phương pháp hệ thống - cấu trúc. - Phương pháp miêu tả. - Phương pháp so sánh - đối chiếu. - Phương pháp phân tích - tổng hợp. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được triển khai qua 3 chương Chương 1. Tiểu thuyết Đỗ Phấn trong bức tranh chung của văn xuôi Việt Nam hiện đại về đề tài đô thị Chương 2. Các phương diện chủ yếu của hiện thực đô thị được phản ánh trong tiểu thuyết Đỗ Phấn 5 Chương 3. Nghệ thuật thể hiện hiện thực đô thị trong tiểu thuyết Đỗ Phấn 6 Chương 1 TIỂU THUYẾT ĐỖ PHẤN TRONG BỨC TRANH CHUNG CỦA VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI VỀ ĐỀ TÀI ĐÔ THỊ Sự thể hiện đề tài đô thị trong văn xuôi Việt Nam hiện đại Khái niệm đô thị Đô thị hoá là xu thế tất yếu của mọi quốc gia trên con đường phát triển. Những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, ở những mức độ khác nhau và với những sắc thái khác nhau, làn sóng đô thị hoá tiếp tục lan rộng như là một quá trình kinh tế, xã hội toàn thế giới - quá trình mở rộng thành phố, tập trung dân cư, thay đổi các mối quan hệ xã hội; quá trình đẩy mạnh và đa dạng hoá những chức năng phi nông nghiệp, mở rộng giao dịch, phát triển lối sống và văn hoá đô thị. Quá trình đô thị hoá ở Việt Nam tuy diễn ra khá sớm, ngay từ thời trung đại với sự hình thành một số đô thị phong kiến, song do nhiều nguyên nhân, quá trình đó diễn ra chậm chạp, mức độ phát triển dân cư thành thị thấp. Thập kỷ cuối thế kỷ XX mở ra bước phát triển mới của đô thị ở Việt Nam. Đặc biệt, sau khi Quốc hội Việt Nam ban hành Luật Doanh nghiệp năm 2000, Luật Đất đai năm 2003, Luật Đầu tư năm 2005; Chính phủ ban hành Nghị định về Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất năm 1997… nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng vọt, gắn theo đó là sự hình thành trên diện rộng, số lượng lớn, tốc độ nhanh các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị mới và sự cải thiện đáng kể kết cấu hạ tầng ở cả thành thị và nông thôn. Làn sóng đô thị hoá đã lan toả, lôi cuốn, như thổi luồng sinh khí mới và tác động trực tiếp đến nông thôn, đời sống con người Việt Nam. Ở Việt Nam, theo Nghị định số 72/2001/NĐ-CP ngày 5 tháng 10 năm 2001 của Chính phủ Việt Nam về việc phân loại đô thị và cấp quản lý đô thị, 7 đô thị là khu dân cư tập trung có những đặc điểm sau về cấp quản lí, đô thị là thành phố, thị xã, thị trấn được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập; về trình độ phát triển, đô thị phải đạt được những tiêu chuẩn sau là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước hoặc một vùng lãnh thổ như vùng liên tỉnh, vùng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc vùng trong tỉnh, trong thành phố trực thuộc Trung ương; vùng huyện hoặc tiểu vùng trong huyện. Đối với khu vực nội thành phố, nội thị xã, thị trấn tỉ lệ lao động phi nông nghiệp tối thiểu phải đạt 65% tổng số lao động; cơ sở hạ tầng phục vụ các hoạt động của dân cư tối thiểu phải đạt 70% mức tiêu chuẩn, quy chuẩn thiết kế quy hoạch xây dựng quy định cho từng loại đô thị, quy mô dân số ít nhất là 4000 người và mật độ dân số tối thiểu phải đạt 2000 người/km². Từ sau 1986, đất nước dường như đã dần “thay da đổi thịt”, con người Việt Nam lúc này đã có những sự thay đổi lớn trong đời sống. Với suy nghĩ và hiện thực cũng khác trước, họ đã dần dần khẳng định mình trong xã hội. Bộ mặt nông thôn ngày nay cũng khác nhiều so với trước đây. Người nông dân giờ đã không còn thô mộc như người nông dân xưa. Sự thay đổi ấy hiện dần lên từ manh quần, tấm áo lành lặn, sạch sẽ. Nhiều người đã rời bỏ công việc nặng nhọc mà trước phải dùng sức lực lao động thủ công thì giờ được thay thế bằng máy móc công nghiệp. Người ta có thời gian để nghe đài đọc báo nhiều hơn, quan tâm đến đời sống chính trị nhiều hơn. Từ đó trình độ dân trí của nông dân được nâng cao. Nền kinh tế thị trường dần lấn át vào đời sống con người. Đô thị hóa là một quá trình tất yếu. Việc ngăn chặn các luồng di dân từ nông thôn vào thành thị là không thực tế và không thể. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, chỉ có thể làm chậm lại chứ không thể ngăn cản hoàn toàn quá trình đô thị hóa và những luồng di dân của người nghèo vào thành phố. 8 Cuộc sống đô thị trở nên hấp dẫn và cuốn hút hơn, con người muốn thay đổi cuộc sống của mình khi đặt chân lên thành thị. Từ những miền quê nghèo, người dân bước chân vào cuộc sống phồn hoa đô thị, với ước vọng đổi đời, nhưng vòng xoáy cuộc sống đã cuốn con người vào cơn lốc của cơ chế thị trường thời mở cửa. Có thể đấy là bước ngoặt lớn thay đổi vận mệnh con người, và cũng có thể đấy là bước chân hụt khi chạm tới môi trường thành thị. Theo Giáo sư Đặng Vũ Khiêu, nhà triết học, nhà nghiên cứu văn hóa “Dưới chế độ phong kiến, giữa nông thôn và thành thị là một khoảng cách quá xa. Thời gian gần đây, đặc biệt trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, chúng ta thấy nông thôn đang xích lại gần hơn với thành thị. Quá trình đô thị hóa nông thôn đã biến nền sản xuất nông nghiệp độc canh trở thành nền sản xuất hàng hóa đa ngành nghề. Lối sống thành phố du nhập vào nông thôn rất nhanh, tác động lớn tới cuộc sống, phong tục tập quán thôn quê Việt Nam và những giá trị văn hóa truyền thống lâu đời”. Nếu như ở nông thôn trước kia còn nhiều hủ tục, mê tín dị đoan thì nay đã bớt đi nhiều. Quá trình đô thị hóa nông thôn đã đem lại rất nhiều thành tựu cho đất nước. Cái được là rất lớn. Những gì tốt đẹp mà đời sống vật chất đem lại cho con người đã nảy sinh dần dần trong nông thôn. Đời sống được nâng cao đã khiến cho người ta xây dựng lại nhà cửa đẹp, khang trang hơn. Đường sá nông thôn được trải nhựa, bê-tông sạch sẽ, đi lại thuận tiện. Người nông dân trước kia chỉ quanh quẩn trong thôn làng, giờ mở rộng quan hệ ra bên ngoài. Tuy nhiên, những nét đẹp truyền thống trong gia đình, họ hàng, làng xóm láng giềng cũng có phần bị tổn hại; một bộ phận thanh niên ăn chơi, đua đòi; quan hệ con cái với cha mẹ trong một số gia đình ngày càng xa dần; thế hệ trẻ tiếp thu nhanh xu thế hiện đại, ngược lại với đa phần người cao tuổi cố giữ những giá trị truyền thống, dẫn tới những mâu thuẫn mới. 9 Đề tài đô thị trong văn xuôi Việt Nam trước 1945 đến năm 1975 Trong nhiều tác phẩm viết về đề tài đô thị thuộc giai đoạn văn học 1945 - 1975, các nhà văn đã tập trung miêu tả cuộc sống thành thị với cảm hứng phê phán những lối sống thực dụng, buông thả, không lý tưởng, coi đồng tiền là trên hết, bất chấp luân thường, đạo lý. Tiểu thuyết Cô Lan của Anh Huy, Hai dòng con của Hoàng Thị Như Mai… là sự cảnh báo về sự xuống cấp về mặt đạo đức, sự tha hóa của tầng lớp trí thức trước làn sóng vật chất và văn minh phương Tây. Lan trong Cô Lan là người có học nhưng cuối cùng gặp phải những trắc trở trong cuộc đời cũng bởi cô coi thường các giá trị truyền thống để chạy theo lối sống thực dụng, mờ mắt trước đồng tiền và cuộc sống xa hoa nơi phố thị. Lan sống trong một vòng luẩn quẩn không lối thoát. Mẹ nàng vốn là một gái bán hương, vì cuộc sống mưu sinh đã làm vợ bé ông Mộc, chủ nhà nghỉ Mộc Hương. Cuộc sống mẹ con Lan thay đổi từ đó. Lan sống trong nhung lụa, lớn lên xinh đẹp. Thế rồi nàng yêu Trúc, con riêng của Mộc. Trúc qua Pháp du học, Lan ở nhà buồn bã tìm đến rượu và thú vui khiêu vũ. Nàng bị giáo sư khiêu vũ chuốc rượu và cưỡng hiếp. Nàng được ông Mộc đưa đến nhà bác sĩ Hại để bỏ cái thai. Sau đó Lan bị Hại cưỡng dâm nhiều lần. Cuộc đời của Lan bắt đầu trượt dốc và nàng trở thành món đồ chơi của Mộc. Toàn bộ cuộc sống tủi nhục của Lan được cô viết thành thiên phóng sự xã hội Một thế giới hỗn loạn. Trong thế giới ấy, mọi giá trị đạo đức truyền thống dường như bị đảo lộn hoàn toàn. Sự sa ngã của con người trước đồng tiền cũng được các nhà văn đặc biệt chú ý miêu tả với cảm hứng phê phán. Trong rất nhiều cuốn tiểu thuyết, đồng tiền phi nghĩa lắm lúc là tác nhân gây nên bi kịch của gia đình, bi kịch cá nhân. Cuộc sống vật chất cũng đã làm cho Cẩm Tâm trong Hai dòng con từ một cô gái hiền lành trở thành kẻ phá nát sự nghiệp của cha, đẩy hai người anh đến cảnh khốn cùng. Bản thân Cẩm Tâm cũng phải nhận lấy cái chết đau đớn và để lại các con còn thơ dại. Điều đáng 10 nói là qua hình tượng nhân vật Lan, Cẩm Tâm tác giả cũng đã chỉ ra sự lầm lạc của họ phần là do hoàn cảnh xã hội tạo nên và cần phải cải tạo xã hội. Đó là một cái nhìn sâu sắc, tiếng nói đầy trách nhiệm của nhà văn đối với cuộc sống con người và xã hội. Trong lời giới thiệu thiên phóng sự Một thế giới hỗn loạn của Ly Thôn, nhà văn Anh Huy đã cho thấy phần nào ý hướng đó “Cô Lan, nhân vật chánh trong thiên phóng sự này là hình ảnh của một số gái Việt và có lẽ cũng là hình ảnh của tôi, đang cùng sống trong một hoàn cảnh ngặt nghèo nếu không gọi là số kiếp… Giờ đây mời bạn hãy đi sâu vào lòng xã hội để cùng tôi chiêm nghiệm ít cảnh đời. Ước ao đây chỉ là một chuyến đò đang qua một khúc sông đêm để đi đến một bến mai tươi sáng”. Trong giai đoạn này ta không thể không nhắc tới Tự Lực văn đoàn. Tự Lực văn đoàn chính thức thành lập năm 1933, gồm có Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, Khái Hưng Trần Khánh Giư, Hoàng ạo Nguyễn Tường Long, Thạch Lam Nguyễn Tường Lân, Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu, Thế Lữ Nguyễn Thứ Lễ. Về sau thêm Xuân Diệu, Trần Tiêu em Khái Hưng" theo tài liệu của Trương Chính. Các nhà văn cộng tác chặt chẽ với văn đoàn này là Trọng Lang, Huy Cận, Thanh Tịnh, oàn Phú Tứ. Cơ quan ngôn luận của văn đoàn là tờ báo Phong hóa, khi Phong hóa bị đóng cửa năm 1936 thì có tờ Ngày nay thay thế. Khi ra đời, Tự Lực văn đoàn có đề ra tôn chỉ mục đích rõ ràng "Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ. Theo chủ nghĩa bình dân, không có tính cách trưởng giả quý phái. Tôn trọng tự do cá nhân. Làm cho người ta biết đạo Khổng không hợp thời nữa. em phương pháp Thái Tây áp dụng vào văn chương An Nam". Sau khi khởi nghĩa Yên Bái vào đêm mồng 9 tháng 2 năm 1930 bị thất bại, một không khí chán nản, u hoài, yếm thế bao trùm đời sống. Thanh niên lớn lên không còn có lý tưởng để phụng sự. Con đường yêu 11 nước bế tắc, họ thoát ly trong những tình cảm cá nhân nhất là yêu đương. Thơ văn ái tình lãng mạng bắt đầu từ đấy. Chính thời 1930 văn học đã đẻ ra những nhân vật điển hình như Tố Tâm, ạm Thủy. Rồi thơ của bà Tương Phố, ông ông Hồ, người chết chồng, kẻ chết vợ, họ khóc lóc nỉ non, khơi mào cho các nhà văn lãng mạn lớp sau đi sâu vào tình yêu để rồi phô diễn thành vần thành điệu. Tự Lực văn đoàn đề ra mục đích tôn chỉ "lúc nào cũng trẻ, yêu đời" là muốn phá tan cái không khí u uất, sầu thảm kia. Trong hoàn cảnh xã hội thời Pháp thuộc, cái nhân văn tiểu tư sản đó tiến bộ nhiều hơn so với cái nhân văn cổ hủ, hẹp hòi thời phong kiến. Trong tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn thanh niên chưa dám đứng lên cứu nước, đang tìm mọi cách thoát ly thực tế đời sống. Vui, cũng để mà quên. ối với họ than vãn là lạc hậu, nói như Nhất Linh trong lời tựa cuốn Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng. Tâm hồn họ "phảng phất vui lẫn buồn tựa như những ngày thu nắng nhạt điểm mưa thưa". Từ sau ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc vào năm 1954, số tác giả viết về hiện thực đô thị tuy không nhiều nhưng thành tựu sáng tác trên đề tài này thì rất đáng chú ý. Năm 1961, Nguyễn Huy Tưởng 1912-1960 hoàn thành tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô. Hà Nội vẫn là địa bàn cho Nguyễn Huy Tưởng dồn tất cả tâm huyết của mình; vẫn là nơi ông gửi gắm những khát vọng sáng tạo của mình để có một Sống mãi với thủ đô mang tầm vóc sử thi về 3 ngày đêm chiến đấu của quân dân Thủ đô. Trong Sống mãi với thủ đô, Nguyễn Huy Tưởng vẫn tiếp tục chọn Hà Nội làm bối cảnh hoạt động cho thế giới nhân vật của mình. Nhưng lần này có khác trước, lần này là một Hà Nội “đa thanh”, phức tạp và nhiều vẻ. Một Hà Nội của nhiều Hà Nội Hà Nội phù hoa, Hà Nội thượng lưu, Hà Nội lao động, Hà Nội lầm than, Hà Nội của mọi lớp người... Miêu tả Hà Nội trong vẻ toàn vẹn và phức tạp của nó, Nguyễn Huy Tưởng đã 12 có những cố gắng lớn để mở rộng thế giới nhân vật. Nhiều trang Sống mãi với thủ đô rạo rực một không khí hùng tráng của sử thi. Đọc truyện, ta khó theo dõi được thời gian, ta bị cuốn đi trong những diễn biến lớn lao, căng thẳng của cuộc đời, tưởng như đã xảy ra hàng năm hàng tháng, nhưng thật ra chỉ có mấy ngày đêm. Không khí loãng tan xao xác dưới những mái trường. Quang cảnh rạo rực chuẩn bị kháng chiến trên từng khu phố, góc nhà, đến buổi chiều ở vườn hoa Cửa Nam, người Hà Nội vẫn vây quanh một anh thợ nặn, sống nốt quang cảnh yên bình cuối cùng khi chung quanh đã ngột lên mùi tanh giá của chiến tranh. Từng chuyến tàu vội vã. Đêm tản cư. Những buổi chia tay. Vụ thảm sát Yên Ninh. Những trận đánh giằng co, căng thẳng ở Bắc Bộ Phủ, ở nhà bưu điện Bờ Hồ... Tiếng cười nói, tiếng súng đạn, tiếng trẻ bán báo, rao hàng, tiếng cười ấm áp, tiếng sinh hoạt của đời... bản hoà tấu của nhiều âm thanh khác nhau đó trong truyện, nghe khác hẳn tiếng gõ quan tài bi thảm trong kịch Những người ở lại. Nguyễn Đình Thi 1924 - 2003 tác giả của bài hát Người Hà Nội và những bài thơ hay về Hà Nội cũng là người sớm đến với văn xuôi. Nói văn xuôi của Nguyễn Đình Thi trước hết là nói về bộ tiểu thuyết Vỡ bờ, 2 tập, ra đời trong khoảng 10 năm 1962 - 1970. Vỡ bờ bao quát một phạm vi hiện thực rộng, gồm hoạt động của nhiều lớp người trên ba địa bàn Hà Nội - Hải Dương - Hải Phòng. Có nông dân, công nhân, trí thức, dân nghèo thành thị; có địa chủ, tư sản, tư sản mại bản, và bọn tay sai Nhật - Pháp; có hoạt động của người cách mạng. Bộ mặt kẻ thù trong cấu kết giữa Pháp - Nhật, trong hoạt động của các tầng lớp địa chủ, tư sản, quan lại - như Nghị Khanh, Huyện Môn, Ích Phong... nhằm tạo ra tình thế tương phản, và làm nên một cái nền tối cho bức tranh... Cố gắng của tác giả Vỡ bờ là ở chỗ, với lượng trang khá lớn, tác giả đã đặt các nhân vật, gồm nhiều loại, trong các mối quan hệ qua lại. Và đó là ưu thế cần phải có khi thế 13 giới nhân vật được mở rộng ra nhiều tầng lớp, và hoạt động trên một không gian rộng, gắn nối với Hà Nội. Hơn 30 năm đất nước trong chiến tranh, đề tài trung tâm của văn học đương nhiên phải là đề tài chiến tranh. Trong số hàng trăm tiểu thuyết, có gắn với đề tài về đô thị đặc biệt là đề tài Hà Nội, có nhân vật là người Hà Nội hoặc có địa bàn hoạt động ở Hà Nội có thể kể đến Vùng trời 3 tập - 1971, 1974, 1980 của Hữu Mai 1926-2007, Những tầm cao 2 tập - 1973, 1977 của Hồ Phương cho đến Lửa từ những ngôi nhà 1977 của Nguyễn Minh Châu 1930-1989... Đây là những cuốn tiểu thuyết in đậm dấu ấn một thời hào hùng và bi tráng của dân tộc, được viết trong cảm hứng khẳng định vẻ đẹp và sức mạnh của nhân dân, dẫu ở vị trí nào cũng đều có tư cách người chiến sĩ... Đề tài đô thị trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 Văn học thời kì này với lăng kính đa chiều, dưới nhiều góc độ quan sát khác nhau, tạo nên những mảng màu chân thực, sống động và đa dạng của cuộc sống muôn mặt đời thường. Dưới ống kính soi chiếu này, con người trong tiểu thuyết Việt Nam hiện lên rất phức tạp, là sự đan cài nhiều tính cách khác nhau trong một con người. Đó là Mùa lá rụng trong vườn 1984 của Ma Văn Kháng; Cuốn gia phả để lại 1988 của Đoàn Lê. Một đi vào những rạn vỡ trong đời sống gia đình trước sự xâm nhập của nền kinh tế thị trường. Một đi vào vấn đề gia tộc và dòng họ với những lủng củng, xung đột, bất an, vẫn là do sự chi phối của đồng tiền. Một tiểu thuyết mang tên Phố 1993 của Chu Lai lấy đề tài từ “phố nhà binh”. Chỉ riêng tên truyện cũng đã gợi nên những góc nhìn mới, những sắc màu lạ trong cái thời đất nước mở cửa... Đến cả những pháo đài kiên cố nhất như “phố nhà binh” cũng không tránh được những rạn vỡ, lung lay để có một hình hài mới cho cả phần xác và phần hồn của nó. Đã đi qua thời kì chiến tranh 14 bom đạn, thời kì hoà bình, đời sống được nâng lên tầm cao mới, con người mới được thể hiện qua tác phẩm với nhiều phương diện khác nhau. Quan niệm về con người trong văn học sau 1986 là một quan niệm đầy biện chứng. Con người ở đây hiện lên chân thực như nó vốn có, không bị thần thánh hoá, lí tưởng hoá. Họ được đặt trong bầu không khí ngổn ngang của hiện thực, sự xô bồ của thời buổi kinh tế thị trường, trước sự bon chen, tranh dành quyền lợi của con người. Chính vì thế, khi đọc tiểu thuyết hôm nay người đọc như nhận diện được chính mình, mọi người xung quanh mình, xã hội mình đang sống một cách trung thực và trọn vẹn hơn, không tô hồng hay bóp méo sự thật, đó là hiện thực vốn có không phải là hiện thực như mình mong muốn. Chính sách mở cửa của Đảng và nhà nước ta đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển một cách mạnh mẽ và thu được nhiều thắng lợi. Vị trí nước ta trên trường quốc tế được nâng cao, đời sống người dân được cải thiện vượt bậc. Đất nước bước sang một thời đại mới với những bước ngoặt to lớn có nhiều cơ hội và thách thức. Tốc độ đô thị hoá diễn ra nhanh chóng làm cho bộ mặt nước ta mang một sắc diện mới. Bên cạnh sự phát triển đó chúng ta phải gánh chịu những hậu quả của nền kinh tế thị trường, tác động đến văn hoá truyền thống và nguy hại hơn nó làm thay đổi lối sống, đạo đức của người Việt Nam. Con người đứng trong vòng xoáy của quá khứ, hiện tại và tương lai, có người không định hướng được cho hành động của mình, sự thực ấy dẫn họ đến với những cú sốc nặng nề về tâm lý. Họ lạc vào vòng quay của cuộc sống mới, sự cạnh tranh của kinh tế hàng hoá và buông mình theo lối sống thực dụng, bất chấp luân lý, nền tảng đạo đức truyền thống bị sa sút nghiêm trọng. Thực trạng phi lý và cay đắng đó đang làm tha hoá cái thế giới tinh thần mà bấy lâu nay ta hằng coi trọng và giữ gìn. Hiện thực đời sống thành thị thời hậu chiến với những vấn đề gai góc cũng được ngòi bút Lê Lựu quan tâm khai thác. Nếu như ở phần hai của Thời 15 xa vắng, quãng đời bi kịch tiếp theo của Sài đã cho thấy phần nào mặt trái của cơ chế quan liêu bao cấp, sự phức tạp xô bồ nơi phố phường thì ở Hai nhà phạm vi và cấp độ phản ánh hiện thực được mở rộng, nâng cao hơn. Tái hiện lại một thời thiếu thốn và khó khăn, Lê Lựu nhìn thấy những bất hợp lý trong cơ chế xã hội. Nhà văn khái quát hóa lối sống thực dụng, ích kỷ đang dần hình thành. Đó còn là sự tấn công mạnh mẽ từ bên ngoài vào “tế bào” gia đình làm tan rã mô hình gia đình truyền thống. Bằng cái nhìn sắc sảo, ráo riết, Lê Lựu phân tích, lý giải những biến động của đời sống xã hội, sự tác động đến số phận con người. Hai nhà mở dần từng ô cửa để thấy được thực chất “ngôi nhà” bên trong, mỗi cánh cửa hé mở là mỗi lần thôi thúc sự dò tìm của người đọc lần thứ nhất mượn lời người chú rể của Linh Anh để tiết lộ quá khứ của cô gái thành thị lọc lõi, hư hỏng; lần thứ hai nhấm nháp từng trang nhật ký của cô ta để vén thêm bức màn bí mật về những hoan lạc của thời con gái buông thả, những cảm giác bức bối khi phải sống với người chồng không như mong ước, những thèm khát dẫn tới cuộc tình vụng trộm và trận đánh ghen bẽ bàng; lần thứ ba bức thư tuyệt mệnh của ông Địa đã xé toang tất cả, làm rõ vì sao lại có cái chết oan uổng của thằng cháu ngoan ngoãn, học giỏi và được tất cả mọi người yêu mến. Không chỉ phê phán sự tha hóa, cái xấu xa, ông cảm nhận thấm thía những lầm lẫn, hạn chế của cả một thời. Nhận thức quá khứ và thực trạng đời sống, tiểu thuyết Lê Lựu còn có khả năng dự báo xu thế phát triển tất yếu và những đổi thay trong xã hội. Có thể nói đây là sự khởi đầu của dòng văn học “tự vấn”, một hướng đi mới của tiểu thuyết nước ta mà trước đó chưa có. Nỗi buồn chiến tranh 1990 của Bảo Ninh là một bổ sung cần thiết cho bức tranh thấm đẫm không khí anh hùng một thời của dân tộc, qua tính cách và số phận một chiến binh, từ là anh lính trinh sát trong chiến tranh, được sống để trở về, rồi trở thành “nhà văn phường” có nơi sinh và nơi ở là Hà Nội. Nhóm quản trị Cumusic, Easyman, Huyền Băng, KeDangGhet, Mercury, Mars, Mọt Sách. Nhóm điều hành Băng Nguyệt, Canary, Cumusic, Diên Vỹ, Donation, Easyman, Hoàng Dung, HongYen, Huyền Băng, James Jee, KeDangGhet, Khánh Quỳnh, Kim_Bang_2, Lang Thang, Mars, Mickey, NCD, Nguyên Đỗ, NKT, Phongvans, QV, Saomai1268, Sunflower, Thanh Vân, Tommyboy, Viet Duong Nhan. Bài viết và sách tại thuộc quyền sở hữu của người viết và của • Copyright © 2002 - 2023 Viet Nam Thu Quan • Designed by Phạm Huy Hùng • Trang Sách Truyện hiện có 996 người đang online, Đã Có 35018 Lượt Truy Cập Trong Ngày.

doc truyen tieu thuyet đỗ đỗ